Thứ Bảy, 18 tháng 4, 2009
Vỏ trứng gà: Một số ứng dụng cụ thể.
- Co giật (do thiếu canxi): Vỏ trứng gà sao vàng tán bột, uống ngày 1 lần, mỗi lần 1-2 g với nước đường ấm.
- Trớ sữa: Vỏ 1 quả trứng sao vàng tán bột, gạo 15-20 hạt nấu chín, thêm sữa mẹ 1 thìa, cho trẻ uống.
- Còi xương: Vỏ trứng gà 50 g nghiền bột. Thương truật 500 g nấu đặc rồi lọc qua vải thưa, trộn với bột vỏ trứng, cho ít muối, đường. Mỗi lần uống 5 ml, uống trong nửa tháng.
- Khóc đêm: Vỏ trứng gà rang, tán bột, cho vào cháo cho trẻ ăn.
- Ra mồ hôi trộm: Màng trong vỏ trứng 10 cái, hạt vải 10 hạt, hồng táo 5 quả. Nấu lấy nước đặc uống. Ngày uống 2 lần sáng và tối vào lúc bụng đói.
- Ho gà: Màng trong vỏ trứng 12 cái sấy khô, nghiền thành bột. Ma hoàng 1,5 g, tử uyển 10 g, cho vào nước nấu 10 phút, bỏ bã lấy nước uống với bột màng vỏ trứng. Dùng ngày 1 lần trong 5 ngày.
Chữa các bệnh sản phụ khoa
- Run tay sau sinh: Sò biển 6 g, vỏ trứng gà 6 quả sấy khô, đương quy 30 g, tất cả nghiền thành bột. Uống mỗi lần 10 g. Dùng ngày 2 lần với 200 ml rượu vàng hòa nước nóng uống.
- Sẩy thai: Màng trong vỏ trứng lượng vừa phải, cho lên viên ngói mới, sao vàng, nghiền nhỏ. Nếu lần mang thai trước bị sẩy tháng nào thì lần này uống liên tục 5 ngày trước tháng đó. Mỗi lần 10 g, ngày 2 lần, uống với nước cơm.
Các bệnh nội khoa
- Ho ra máu: Bột vỏ trứng 6 g, muối vừa đủ, vitamin C 2-4 viên nghiền vụn. Hòa cùng để uống. Ngày dùng 3 lần, trong 1 tuần. Có thể dùng công thức này cho các trường hợp tiêu tiểu ra máu, nôn ra máu, chảy máu cam.
- Chóng mặt: Vỏ trứng gà sao vàng, tán bột, uống với rượu vang. Mỗi lần 9 g. Ngày 3 lần.
- Bí tiểu tiện: Vở trứng và sò biển tán bột lượng bằng nhau (kết hợp Tây y để tránh biến chứng).
- Cơn đau dạ dày: Vỏ trứng gà và hoa phật thủ tán bột, lượng bằng nhau. Uống lúc đau 6 g với nước ấm.
- Viêm loét dạ dày thừa toan: Vỏ trứng gà, vỏ sò biển nung tán bột mỗi thứ 30 g; bạch khấu nhân, sa nhân mỗi thứ 20 g sao tán. Uống 1,5 g. Ngày 2 lần.
- Nôn và tiêu chảy: Vở trứng 1 quả sao tán bột, uống với nước ấm. Còn dùng bột này cho người bị ợ chua, viêm loét dạ dày.
Các bệnh khác
- Thoát vị bẹn: Vở trứng gà đã nở con sao thành than, tán bột. Mỗi lần uống 9 g với rượu cũ. Hoặc uống 1-3 g với nước cơm.
- Phòng chữa loãng xương: Nghiền vỏ trứng gà cho vào gạo nấu cơm hoặc cháo, làm bánh để ăn.
- Bệnh sởi: Vỏ trứng 50 g sao khô, tán bột, uống mỗi lần 2 g. Ngày 3 lần với nước ấm.
- Lở miệng: Màng trong vỏ trứng ngâm nước muối dán vào chỗ đau.
- Viêm họng mạn: Màng vỏ trứng 5 quả, thiên môn 12 g, mật ong 1 thìa. Nấu cách thủy uống.
- Mụn nhọt, nấm: Vỏ trứng 5 cái, vôi bột chín 15 g cho vào trong vỏ trứng nung chín, tán bột, trộn với dầu vừng bôi.
- Vết thương chảy máu: Vỏ trứng gà tán bột rắc lên.
Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2009
CÁC CÁCH SƠ CỨU Ở TRẺ EM
1. Bỏng
Rửa vết bỏng cho trẻ.
Làm mát chỗ bị bỏng bằng nước lạnh trong ít nhất 10 phút. Nó sẽ làm giảm sưng phồng. Cởi bỏ quần áo ra, nhưng nếu nó dính vào vết bỏng thì để nguyên.
Băng vết thương bằng loại nilon bọc thức ăn hoặc miếng vải sạch không nhiều sợi lông. Tuy nhiên, nếu vết bỏng nặng hoặc to hơn bàn tay thì phải đưa trẻ đến bệnh viện.
2. Chảy máu cam
Cho trẻ ngồi xuống và ngửa đầu lên để dòng máu không chảy ra khỏi mũi. Để chúng thở bằng miệng và bịt đầu mũi lại trong 10 phút. Nếu máu vẫn không ngừng chảy, ép mũi trở lại trong 2 lần nữa.
Khi máu ngừng chảy, lau sạch mũi. Bảo trẻ không nói chuyện, ho hay khụt khịt bởi nó có thể làm vỡ mạch máu đã lành trong mũi và lại gây chảy máu.
Đừng ngửa hẳn đầu trẻ ra sau bởi máu sẽ có thể chảy ngược vào cổ họng gây khó chịu. Nếu máu vẫn chảy trong hơn 30 phút, nên đưa trẻ đến bác sĩ.
3. Nghẹn, Dị vật đường thở: Không dùng tay móc nếu trẻ quá bé
Chữa nghẹn cho trẻ hơn 1 tuổi. Ảnh: Daily Mail.
Trẻ có thể ho sù sụ hoặc lặng câm bởi chúng không thể thở nổi. Nếu vật cản không thoát ra khi chúng ho, cần phải hành động ngay lập tức.
Xem xét có vật thể nào ở trong, nhưng chỉ lấy ra khi bạn biết chắc có thể chạm vào mà không đẩy chúng sâu vào họng.
Còn không, với trẻ hơn 12 tháng tuổi, đặt chúng nằm sấp trên đùi, đánh 5 cái vào giữa xương vai bằng lòng bàn tay.
Với em bé hơn, đặt bé nằm sấp trên cánh tay, đảm bảo đầu và cổ được đỡ chắc chắn, rồi mới đánh vào giữa vai bé.
Nếu vẫn không hiệu quả, thì lật ngửa bé lên, đặt đầu bé vào lòng bàn tay, hạ thấp người bé xuống. Dùng 2 ngón tay ấn mạnh vào xương ức. Cứ làm như thế sau 3 giây và nhìn vào mồm bé. Nếu bạn thấy cái gì đó thì nhặt ra, còn không thì tiếp tục ấn.
Với trẻ trên 1 tuổi, đứng sau chúng và đặt nắm tay của bạn ở giữa rốn và lồng ngực. Đặt bàn tay kia nắm lên và kéo mạnh ngược lên. Làm như thế 5 lần.
Nếu trẻ vẫn không hết ngạt, hãy gọi cấp cứu trong khi tiếp tục sơ cứu.
4. Bong gân
Bạn nghi ngờ trẻ bị bong gân. Trước tiên cho bé ngồi xuống. Bọc một ít đá trong khăn mặt và áp lên chỗ bị đau trong 10 phút để giảm sưng tím. Băng vết thương cẩn thận. Giữ chỗ đau ở trên cao để làm giảm dòng máu tới vết thương, đỡ sưng tấy.
5. Ngã
Nếu trẻ bị bất tỉnh, dù chỉ trong thời gian ngắn, hãy quấn chăn cho bé để giảm sốc, rồi gọi cấp cứu.
Đặt bé nằm ở tư thế hồi phục nếu vẫn còn thở và không có dấu hiệu gẫy xương hay chấn thương ở đầu cổ. Tìm kiếm các vết rạn nứt sọ, như hai con ngươi không đồng đều, máu chảy từ tai hoặc chảy nước từ mũi.
Kiểm tra chỗ chày xước hay chân tay có hình dáng bất thường. Nếu bạn nghi xương bị gãy thì hãy giữ nguyên cho đến khi xe cấp cứu đến. Quấn tạm khăn quanh chỗ đó.
Nếu trẻ tỉnh táo và không có dấu hiệu nghiêm trọng gì, dùng miếng vải thấm nước lạnh đắp lên chỗ va đập trong 10 phút để giảm sưng.
Theo dõi trẻ trong ít nhất 48 tiếng sau khi tai nạn, gọi bác sĩ nếu bạn phát hiện vấn đề gì khác thường như chóng mặt, hoa mắt, nói khó.
6. Điện giật
Bạn không được chạm vào trẻ nếu nó vẫn ở trong nguồn điện, nếu không bạn cũng bị giật.
Tắt nguồn điện ngay lập tức nếu có thể. Còn khi bạn vẫn phải tiếp xúc với trẻ để lấy nguồn điện ra, hãy đứng trên vật liệu cách điện khô, như quyển danh bạ điện thoại, dùng thứ gì đó bằng vật liệu cách điện, như cái chổi gỗ hoặc cuộn báo, và đẩy nguồn điện ra.
Hoặc nếu không, thòng dây thừng vào cánh tay hoặc cổ chân bé và kéo ra khỏi nguồn điện.
Kiểm tra hơi thở của bé. Nếu bé bất tỉnh nhưng vẫn thở, hãy đặt bé về tư thế hồi phục. Vết bỏng do điện giật có thể nhỏ nhưng gây nguy hiểm bên trong, hãy gọi cấp cứu.
7. Ngộ độc
Nếu bạn tin rằng trẻ đã hít hay nuốt phải chất độc như các chấy tẩy rửa, thuốc, hay các vật thể có hại, hãy gọi cấp cứu ngay lập tức và giữ trẻ im cho đến khi bác sĩ đến.
Nếu có thể, tìm hiểu chúng đã nuốt phải thứ gì và mang theo vỏ hộp đến bệnh viện. Đừng khiến chúng nôn ra bởi nó chỉ do gây tổn hại dạ dày và đường ống.
Nếu trẻ tự động nôn ra, hãy mang theo chỗ đó tới bệnh viện để phân tích.
Nếu trẻ nuốt phải thứ gì gây bỏng họng, hãy cho chúng nhấp ít nước hoặc sữa để làm mát bên trong.
8. Bất tỉnh
Nếu trẻ bất tỉnh, gọi cấp cứu ngay lập tức. Trong khi chờ, hãy làm theo các bước sau.
Nâng cằm bé lên bằng một tay trong khi dùng tay khi ấn trán bé xuống để ngửa đầu ra. Khi đường không khí được mở, hãy lắng nghe hơi thở.
Nếu không có dấu hiệu thở, hãy dùng biện pháp hô hấp nhân tạo. Ngửa đầu ra, nâng cằm lên và bịt mũi. Hít một hơi sâu, gắn mồm lên mồm trẻ và thổi hơi vào miệng trẻ trong 1 giây. Lặp lại không quá 5 lần, kiểm tra xem ngực trẻ có phồng lên. Nếu không, kiểm tra miệng xem có vật cản và đảm bảo đầu vẫn ngửa ra.
Đặt ngót tay lên xương ức của trẻ. Ấn mạnh và nhanh với tốc độ 100 lần/phút. Sau 30 cái, lại hà hơi thổi ngạt cho bé để đưa oxy vào phổi. Sau 2 lần hà hơi thổi ngạt, lại ấn ngực. Lặp lại chu kỳ cho đến khi hơi thở trở lại.
9. Tư thế hồi phục
Đây là tư thế dành cho trẻ bất tỉnh nhưng vẫn thở. Nó giúp chúng thở dễ dàng hơn và không bị nghẹn do nôn. (Nếu nghi ngờ có chấn thương đầu và cổ, thì không di chuyển).
Đặt trẻ nằm nghiêng một bên, co một đầu gối lên, hạ đầu bé xuống để bé không nuốt phải nước dãi chảy ra. Đỡ cổ bằng một cái gối.
Với trẻ sơ sinh, bế trong tay, đỡ đầu và hướng mặt xuống để tránh bị nghẹn.
10. Sốc mẫn cảm
Nó có thể là phản ứng của dị ứng nặng, thường do bị côn trùng đốt hoặc ăn phải lạc. Nó gây giảm huyết áp, đỏ ứng mặt và cơ thể, mặt mũi sưng phồng và khó thở.
Đầu tiên xác định liệu trẻ có phải bị một dị ứng biết trước và mang theo thuốc điều trị. Tiêm thuốc vào bắp đùi hoặc mông.
Sau đó gọi cấp cứu. Đặt trẻ nằm ở tư thế hồi phục, nếu trẻ không thể thở và không có thuốc, hãy gọi cấp cứu, trong khi thực hiện biện pháp hô hấp sơ cứu.
11. Chảy nhiều máu
Nếu trẻ bị vết cắt sâu khiến chảy nhiều máu, hãy rửa sạch, sau đó lau khô tay bạn và đeo găng.
Nâng cao vết thương để máu chảy về các cơ quan nội tạng, thay vì chảy đi mất. Kiểm tra xem có vật gì gắn vào vết thương. Nếu có thì cũng để nguyên bởi sẽ tháo ra sẽ chỉ làm tồi tệ thêm.
Thay vào đó, dùng vải buộc quanh vết thương, lót đệm sao cho miếng vải cao hơn vật thể để không ấn nó vào trong. Gọi cấp cứu ngay lập tức.
Nếu không có gì gắn ở vết thương, dùng miếng vải sạch ấn lên vết thương để kìm máu và quấn chặt xung quanh, tuy nhiên không quá chặt để máu vẫn chảy được đến ngón chân và tay. Tùy thuộc vào độ nghiêm trọng, hãy gọi cấp cứu.
12. Đuối nước: Nhanh chóng móc hết dị vật trong mũi, miệng nạn nhân
Trong trường hợp nạn nhân bị đuối nước vẫn còn tỉnh táo, người lớn chỉ cần đặt trẻ nằm ngửa, đầu hơi nghiêng một bên, sau đó kiểm tra và lấy hết dị vật trong miệng và đường thở của trẻ.
Nếu nạn nhân bất tỉnh, bạn cần phải làm sạch đường thở bằng cách móc dị vật trong miệng, mũi của nạn nhân để thông đường thở. Tiếp đó, bạn hà hơi thổi ngạt kết hợp ép tim ngoài lồng ngực (nếu nạn nhân có dấu hiệu ngừng tim) đến khi nào nạn nhân tự thở được.
Khi nạn nhân tỉnh lại, lưu ý nên để nạn nhân nằm nghiêng, đầu thấp và ủ ấm để đảm bảo thân nhiệt.
Cha mẹ tuyệt đối không nên để trẻ em một mình ở khu vực gần nước hoặc trong môi trường nước. Ở nông thôn nên che đậy giếng, chum, vại, bể nước, thùng nước. Nếu gần nhà có ao, hồ nước, hố nước (sau tôi vôi)... cần phải được rào chắn kỹ càng đề phòng trẻ sa xuống.
13. Bị vật sắc nhọn đâm: Không cố lấy khi đã cắm sâu vào thịt
Khi trẻ bị tai nạn do vật sắc nhọn đâm phải, cần phải rửa sạch vết thương bằng ôxy già hoặc nước sạch. Tuyệt đối bố mẹ không được cố lấy những dị vật đã cắm sâu vào vết thương mà nên sát khuẩn và băng cố định dị vật tại chỗ bằng khăn xô đủ chặt để cầm máu.
Nếu vết thương ở ngay mạch máu thì nên ấn vào đường đi của mạch máu ở phía trên vết thương, đồng thời băng ép đủ chặt để cầm máu. Sau đó phải đưa ngay trẻ đến cơ sở y tế gần nhất.
Các vật gây thương tích như dao, kéo, đinh… có dính bùn đất, phân hoặc gỉ có thể gây uốn ván và các nhiễm trùng nặng khác, nên đưa trẻ đến cơ sở y tế để tiêm phòng. Nhưng cách phòng tốt nhất là các bậc cha mẹ nên cất riêng đồ sắc nhọn, tránh lối ra vào và để xa tầm với của trẻ.
14. Động vật cắn: Rửa ngay vết thương bằng xà phòng
Bị động vật cắn, việc cần làm ngay là phải rửa sạch vết thương bằng nước sạch và xà phòng, sau đó phủ lên vết thương miếng vải sạch hoặc băng gạc.
Nếu trẻ bị chó, mèo cắn cần phải theo dõi con vật tối thiểu trong 10 ngày để phát hiện những biểu hiện bất thường như: sùi bọt mép, bị ốm sau khi cắn. Khi bị động vật nghi dại cắn, phải đưa ngay nạn nhân đến cơ sở y tế để tiêm phòng.
Sưu tầm
Bảo vệ và chăm sóc da em bé
Da em bé có cấu trúc rất mong manh dễ bị tổn thương. Lớp da mỏng, chứa nhiều nước nhưng chất đàn hồi lại ít vì vậy tắm rửa phải nhẹ nhàng, không kỳ cọ, không chà mạnh.
Da các em bé bình thường: Hầu hết các em bé mới sinh bình thường ta có thể tắm bằng nước chanh hoà loãng. Khi em bé 3 tháng tuổi trở lên có thể tắm bằng các loại sữa tắm cho em bé.
Da các em bé bị khô: các em bé được sinh ra trong các gia đình có thành viên mắc các bệnh cơ địa như: viêm da cơ địa, viêm mũi dị ứng, hen phế quản thì hay được di truyền một làn da khô. Em bé sẽ hay bị ngứa và có thể viêm da sẽ xuất hiện trên nền da khô này. Da hai má đỏ ửng lên nhất là trời lạnh, rồi da trở nên sần sùi, sờ vào thô ráp và nổi lên các sẩn, các mụn nước. Đó là em bé bị mắc bệnh viêm da cơ địa. Đồng thời da đầu ngón tay, ngón chân hay bị xước mang rô. Da bàn tay, bàn chân cũng bị khô đồng thời với khô da ở mặt trước hai cẳng chân, mông, lưng, sờ vào thấy thô ráp chứ không mịn màng. Nếu da em bé khô và có viêm da thì ta có thể tắm bằng nước chanh hoà loãng hoặc bằng các sữa tắm cho da khô và da bị tổn thương như: cetaphil, physiogel, saforell... Khi trời lạnh quá không nhất thiết phải tắm hàng ngày. Càng tắm nhiều và tắm kỹ quá sẽ làm da càng khô. Sau khi tắm nếu vùng da nào khô quá thì có thể bôi các kem làm mềm da, ẩm da cho em bé. Nếu em bé dưới 1 tuổi bị khô da quá mức hoặc đã có biểu hiện viêm da thì nhất thiết không tự ý bôi một trong các chế phẩm có steroid như: flucinar, gentrisone, diprosone, fobancort... Nếu bôi không đúng chỉ định sẽ làm hại da và có thể gây teo da em bé. Tốt nhất bạn nên đưa em bé đi khám bác sĩ chuyên khoa Da liễu để được tư vấn và điều trị thích hợp nhất.
Vấn đề đóng bỉm cho em bé: bạn nên hạn chế đóng bỉm cho em bé. Khi đóng bỉm da vùng kẽ bẹn, kẽ mông sẽ bị bí, không thông thoáng cộng với nước tiểu ứ đọng lại sẽ làm tổn thương lớp biểu bì phía trên tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn, vi nấm xâm nhập vào trong da và gây bệnh. Khi thấy da em bé hơi bị mẩn đỏ bạn phải ngừng đóng bỉm và đi khám bác sĩ chuyên khoa Da liễu ngay vì nếu không con bạn sẽ bị mắc bệnh viêm da do tã lót hoặc viêm kẽ do nấm Candida... Nếu là bé gái khi bị viêm kẽ bẹn do nấm Candida thì để lâu hoặc điều trị không thích hợp sẽ bị viêm âm đạo do các bào tử nấm ăn lan vào. Đặc biệt những em bé được sinh ra ở những gia đình mắc các bệnh cơ địa như: viêm da cơ địa, viêm mũi dị ứng, hen phế quản thì da càng dễ bị tổn thương và dễ bị viêm do tã lót.
Để phòng bệnh cho trẻ trong những ngày giá rét, BS Nguyễn Văn Lộc, Phó giám đốc Viện Nhi TƯ khuyên: "Không chỉ giữ ấm cho trẻ, mà trong sinh hoạt, giờ giấc, ăn uống cũng phải rất chu đáo, không thể xuề xoà".
Giữ đủ ấm, đừng nóng quá
Để phòng bệnh hô hấp thời điểm này, quan trọng nhất là giữ đủ ấm cho trẻ, nhất là ấm hai bàn chân, ngực, cổ và đầu, tránh ra gió. Về đêm, khi nhiệt độ xuống thấp, việc ủ ấm cho trẻ là rất quan trọng. Rất nhiều bệnh nhi bị nhiễm lạnh dẫn tới viêm đường hô hấp trên do trẻ không đủ ấm khi ngủ (không mặc ấm hoặc ngủ say nên trẻ đạp bung chăn mà không biết). Do vậy, khi đi ngủ, cần mặc ấm cho trẻ. Nếu cần, có thể mặc thêm áo nhưng mặc ngược để giữ ấm phần ngực, cổ trong khi lưng vẫn được thoáng, không bị quá nóng dẫn đến rịn mồ hôi lưng.
Ngược lại, không ít bé ốm phải vào viện, một phần vì cha mẹ ủ bé quá kỹ. Khi đến khám, bác sĩ vén lưng áo cháu lên để nghe phổi thì thấy lưng, ngực dính dính mồ hôi. Khi mồ hôi ra nhiều mà không để ý lau khô, mồ hôi sẽ bị ngấm ngược lại cơ thể, khiến bé bị lạnh và có thể gây viêm phổi.
Vì thế, vấn đề cần quan tâm là các bà mẹ cần chú ý đến việc mặc quần áo của trẻ sao cho hợp lý. Nếu bé ở nhà, có thể để ý bé đủ ấm hay không bằng cách sờ vào hai tay cháu, nếu thấy ấm, không giá thì là bé đã mặc đủ đồ. Tuy nhiên cũng cần lưu ý, khi bé chơi đùa, vận đồng nhiều thì cần thường xuyên kiểm tra lưng, ngực bé, nếu thấy có dính mồ hôi phải dùng khăn mềm lau khô, bỏ bớt áo để thân nhiệt bé trở về bình thường, sau đó mới lại mặc áo.
Với những cháu nhỏ còn bú mẹ, khi bú rất hay rịn mồ hôi đầu, lưng cũng cần chú ý lau khô ngay. Sau khi bú xong, nghỉ ngơi, bé sẽ không còn bị ra mồ hôi nữa.
Còn khi đi đường, nhất là với những bé ở nhà chung cư, khi nào xuống đến tầng 1, chuẩn bị xe cộ sẵn sàng thì mới ủ thêm cho bé lớp áo dày, khăn đi đường. Vì nếu quá ấm ngay từ trong nhà, còn phải trải qua một thời gian đi cầu thang, lấy xe khiến bé rất nóng nực, rịn mồ hôi. Cũng cần chú ý thái độ của bé, thường nếu nóng quá, bé sẽ cố ưỡn lên khỏi tay người bế.
Chú ý mặc áo bên trong cho bé bằng chất cotton, thoáng, dễ thấm mồ hôi. Luôn giữ ấm cổ cho trẻ bằng một khăn xô. Nên mặc quần tất khi cho trẻ đi đường vì như thế sẽ hạn chế được tình trạng hở chân do quần bị kéo lên.
Ăn, uống đồ ấm và đủ chất
Việc này rất có ý nghĩa trong việc phòng bệnh một số bệnh về họng cho trẻ. Thời tiết mùa đông vốn hanh, khô, bạn có thể tạo môi trường khí ẩm bằng cách mở nắp ấm nước nóng trong phòng ngủ, không khí ẩm, ấm sẽ làm dịu khí quản, phế quản, giúp bé đỡ bị khô mũi, dễ thở hơn.
Nếu bé ăn bột quá chậm, bạn nên để bát bột trong một bát nước nóng để đảm bảo bột bé ăn luôn được ấm. Với những trẻ ăn sữa bằng cách bón cũng nên làm như vậy. Sữa, bột, nước ấm sẽ giúp bé dễ ăn hơn là những thìa bột, sữa lạnh ngắt.
Việc cho trẻ uống một đồ uống gì đó nóng ấm lúc đi ngủ cũng rất có tác dụng làm dịu họng, nhất là với những bé đang húng hắng tắc ho.
Nhớ cho trẻ ăn một chế độ ăn đa dạng, phong phú thực phẩm, rau quả, trái cây sẽ giúp cơ thể bé khoẻ mạnh, có sức đề kháng chống đỡ lại các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp hay gặp trong mùa đông.
Vệ sinh răng miệng, thân thể sạch sẽ
Trong những ngày đông này, đôi khi vì lạnh mà cha mẹ ít tắm cho con. Nếu vậy bé sẽ rất ngứa ngáy, khó chịu. Cách ngày, bạn hãy tắm cho bé một lần. Nhưng nhớ là tắm trong phòng kín gió. Nếu có điều kiện, hãy bật máy sưởi lên cho ấm phòng trước khi cho bé tắm. Hoặc mở vòi nước nóng để hơi nóng lan toả khắp phòng rồi hãy tắm cho bé.
Đặc biệt, mỗi ngày, bạn cần vệ sinh răng miệng cho trẻ sạch sẽ trước khi ăn, ngủ. Với những bé đã đánh được răng, bạn hãy pha nước ấm cho bé đánh. Nếu dùng nước lạnh trời này sẽ rất buốt. Còn với những trẻ nhỏ, sau ăn, bạn nhớ cho trẻ tráng miệng bằng vài thìa nước lọc ấm, nó rất có giá trị để làm trôi cặn sữa, bột, giúp miệng bé luôn sạch sẽ.
Mỗi sáng, cha mẹ có thể nhỏ một vài giọt muối sinh lý 0,9% vào họng bé. Nó có giá trị sát khuẩn nhẹ, giúp phòng bệnh viêm họng.
Chơi, ngủ trong phòng thoáng, tránh gió lùa
Những trẻ ở lứa tuổi đi mẫu giáo, đi học thường bị bệnh về đường hô hấp nhiều nhất, do các cháu thường xuyên phải thay đổi môi trường. Còn với lứa tuổi nhỏ hơn, do trời lạnh, được ở trong nhà nhiệt độ ổn định hơn nên cũng ít nguy cơ bị nhiễm bệnh.
Vì thế, khi đưa trẻ đi học, phải ủ ấm và nhớ luôn mang theo khẩu trang bảo vệ mũi, miệng khi đi đường.
Cho bé chơi, ngủ trong phòng thoáng nhưng không có gió lùa.
Đừng tự trị bệnh cho trẻ
Khi trẻ có dấu hiệu bệnh về đường hô hấp, cách tốt nhất là làm sạch, thông thoáng đường hô hấp bằng muối sinh lý. Sau đó, nếu tình trạng không đỡ nên đưa trẻ tới viện khám để xác định nguyên nhân. Với những trường hợp viêm mũi dị ứng thông thường, viêm tiểu phế quản ở trẻ sơ sinh… chỉ dùng nước muối sinh lý nhỏ để làm sạch đường hô hấp rất có tác dụng.
Đừng tự trị bệnh cho trẻ, kể cả chỉ dùng thuốc ho dạng siro. Đáng nói là nhiều bệnh nhi trước khi đến khám tại bệnh viện, gia đình đã tự cho uống nhiều loại thuốc kháng sinh không đúng cách hoặc để quá lâu nên dẫn đến bệnh nặng, điều trị khó khăn hơn và dễ xảy ra những biến chứng bất thường.
Ngoài ra, cần chú ý đảm bảo vệ sinh cho trẻ, thực hiện ăn chín uống sôi, vệ sinh tay sạch sẽ trước và sau ăn rất hữu ích phòng căn bệnh tiêu chảy mùa đông.
Để bé đạt chiều cao tối đa
Có thể dự đoán chiều cao lúc trưởng thành của trẻ không, thưa BS?
- Chiều cao lúc trưởng thành của trẻ thường được các nhà chuyên môn dự đoán bằng hai công thức sau: Chiều cao lúc trưởng thành = chiều cao lúc 2 tuổi x 2 (ví dụ: lúc 24 tháng bé cao 85 cm, dự đoán bé sẽ cao 170 cm lúc trưởng thành nếu tiếp tục được nuôi dưỡng tốt). Chiều cao lúc trưởng thành = chiều cao lúc 10 tuổi: 80 x 100 (ví dụ: lúc 10 tuổi trẻ cao 140 cm thì khi trưởng thành sẽ đạt 175 cm).
Theo bà thì cần chú ý gì trong chế độ ăn để đạt chiều cao tối đa? "Để tăng trưởng chiều cao được liên tục, trẻ trước tiên phải được nhận đủ năng lượng cần thiết cho cơ thể mỗi ngày, ăn uống đủ lượng, đủ chất để không suy dinh dưỡng, còi cọc hay thiếu vi chất...".
- Để tăng trưởng chiều cao được liên tục, trẻ trước tiên phải được nhận đủ năng lượng cần thiết cho cơ thể mỗi ngày, ăn uống đủ lượng, đủ chất để không suy dinh dưỡng, còi cọc hay thiếu vi chất... Về khía cạnh dinh dưỡng, cần đặc biệt chú ý đến các chất dinh dưỡng đã được các nhà khoa học chứng minh là có liên quan đến sự tăng trưởng chiều cao như protein (đạm), vitamin A, vitamin D, lysin, canxi, sắt, kẽm, iốt... Ngủ đủ giấc, vận động thể dục thể thao thường xuyên trong ánh nắng mặt trời, phòng tránh bệnh tật... là những điều kiện để trẻ phát huy tối đa tiềm năng chiều cao mà di truyền cho phép.
Nhiều người cho rằng trẻ béo phì là do sữa. Vậy có nên ngừng cho trẻ béo phì uống sữa hay không?
- Thực chất sữa chỉ góp phần nhỏ trong vấn đề này. Trẻ béo phì thèm ăn tất cả và đa số trẻ dư năng lượng là từ cơm và chất béo từ dầu mỡ. Đối với trẻ dư cân ít, nên cho trẻ sử dụng các loại sữa tươi không đường. Đối với trẻ béo phì, nên chọn loại sữa tách béo (sữa gầy, sữa không béo, sữa tách bơ... dành cho trẻ trên 6 tuổi). Trẻ béo phì vẫn cần nhận đủ lượng canxi cần thiết cho việc tăng chiều cao của cơ thể.
Thứ Tư, 18 tháng 2, 2009
Một số vấn đề về tuyến vú phụ
Một hôm, có một chị tới phòng khám của tôi xin khám bệnh, trên tay chị còn có cả một đứa bé mới được mấy tháng tuổi. Chị nói với tôi, sau khi chị sinh cháu bé, bên hốc nách phải luôn có một khối u, rất đau, có lúc còn kèm theo cơn sốt, tới bệnh viện của cơ quan khám, bác sĩ bảo bị viêm hạch bạch huyết cấp tính.
Dùng thuốc kháng khuẩn truyền vào tĩnh mạch là khỏi. Mỗi lần tiêm truyền như vậy, khối u mất liền, nhưng chẳng bao lâu lại thấy xuất hiện, đã nhiều lần như vậy rồi. Lần này tái phát là do thời tiết trở rét, khối u nách lại lớn lên rất nhanh, kèm theo cơn sốt cao, nên chị phải tới một bệnh viện lớn hơn xin khám cấp cứu. Sau khi thăm khám, bác sĩ nói: “Cục u ở nách bên phải không phải là viêm kết hạch bạch huyết cấp tính, mà là viêm tuyến vú phụ, tốt nhất là mổ, cắt bỏ đi”. Nghe vậy, chị thắc mắc rất nhiều. Về vú phụ, trước đây chị cũng đã nghe nói, nhưng chỉ biết rằng tuyến vú phụ này không ảnh hưởng tới sức khỏe người phụ nữ, có thể không cần xử lý gì cả. Tại sao nay bác sĩ lại bảo chị phải mổ cắt bỏ? Chị nghi ngờ hay bác sĩ quan trọng hóa vấn đề, nên đã tới phòng khám của tôi xin khám lại.
Nghe người phụ nữ kể xong, tôi liền tiến hành thăm khám cho chị, thấy cục u bên nách phải của chị quả là một viêm tuyến vú phụ, hơn nữa hình như đã mưng mủ. Ở bên nách trái của chị, phần đối xứng còn có cả đầu vú, và chạm tới cả khối mỡ dày. Ý kiến của bác sĩ nọ có lý. Xem ra nhiều người chưa biết nhiều về sự xuất hiện, tác hại của tuyến vú phụ nên đã có những thắc mắc.
Tuyến vú phụ là hiện tượng nhắc lại giống
Gọi là tuyến vú phụ (hay tuyến sữa), tức là vú phụ như người ta vẫn nói, là sự dị dạng của tuyến sữa có tính bẩm sinh, tức là chỉ, ngoài cặp vú bình thường ra, còn mọc thêm một hoặc nhiều vú hoặc đầu vú, còn gọi là nhiều vú hoặc nhiều đầu vú. Hiện tượng này không hiếm, có cả ở nam lẫn nữ, nhưng ở nữ nhiều hơn (5%).
Tuyến vú phụ thuộc về di tích của phôi thai, giống như ở một số ít người mọc đuôi chẳng hạn, tuyến vú phụ cũng có thể coi là một hiện tượng nhắc lại giống thủy tổ loài người. Như chúng ta đã biết, loài người tiến hóa từ loài động vật có vú, mà động vật có vú thì nói chung là nhiều vú. Trong quá trình phát triển, phôi thai loài người ban đầu cũng có nhiều đôi vú được phân bố trên thành bụng, được gọi là cái “nền ban đầu của vú”, thai nhi đến tuần lễ thứ 9, “nền ban đầu của vú” khác còn lại tự thoái hóa mất đi, chỉ để lại 2 vú trên ngực là phát triển thành vú bình thường như ngày nay. Nếu như các dấu ấn “nền vú khác” không thoái hóa, sẽ thành nhiều bầu vú hoặc núm vú. Vị trí sinh trưởng của vú phụ thường là ở cạnh trong dưới vú bình thường hoặc phía ngoài trên vú. Thường gặp nhất là ở nách, đôi khi ở vị trí khác trên cơ thể, như ở bụng hoặc háng. Rất ít khi xuất hiện ở những chỗ khác như: tai, mặt, cổ, trên cánh tay, ở mông hoặc trên bộ phận sinh dục. Vú phụ có thể là đối xứng, cũng có thể là đơn độc một bên, đúng là “muôn hình vạn trạng”.
Vú phụ ảnh hưởng tới sức khỏe như thế nào?
Vú phụ có ảnh hưởng tới sức khỏe không phải xét tình hình cụ thể. Có những tuyến vú phụ chỉ có núm vú, bầu vú mà không có tổ chức tuyến thể, không có khả năng phát triển thành u ác tính (hay u bướu ung thư), không có ảnh hưởng xấu tới sức khỏe. Có những tuyến vú phụ thì lại có tổ chức kết cấu như vú bình thường, cũng chịu ảnh hưởng tới nội tiết tố sinh dục nữ như thường. Chẳng hạn, cũng giống như vú bình thường, trong kỳ kinh nguyệt, trong thời kỳ mang thai hoặc trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ, vú phụ cũng sưng đau, những vú phụ phát triển tốt, trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ còn có thể tiết ra chút ít sữa, đặc biệt là số ít vú phụ ở ngực khi thông với vú bình thường, còn có thể bóp cho sữa sang vú bình thường hoặc không có núm vú, sữa do nó tiết ra vì không có chỗ thải, tích tụ lại sẽ bị sưng đau gây viêm, thậm chí dẫn tới mưng mủ.
Ngoài ra, vú phụ còn có thể gây viêm hạch sữa, nhánh nhỏ hạch sữa tăng sinh, thậm chí gây nên các khối u lành tính và cả u ác tính. Tỷ lệ sinh bệnh ở vú phụ cao hơn vú bình thường. Không những như vậy, vú phụ còn gây chẩn đoán sai trên lâm sàng khá cao. Chẳng hạn như viêm tuyến vú phụ ở nách thường bị các bác sĩ chẩn đoán nhầm là u mỡ. Thậm chí ung thư tuyến vú phụ lại bị chẩn đoán là viêm hạch bạch huyết thông thường. Xét từ góc độ này, sự tệ hại của các bệnh về vú phụ đã vượt xa các tật bệnh do vú bình thường gây nên.
Vậy vú phụ có cần mổ cắt bỏ?
Sự nguy hại của vú phụ đã lớn như vậy thì có cần mổ cắt bỏ? Thật ra cũng cần phải xem tình hình thực tế cụ thể như thế nào. Như đã đề cập ở phần trên, có những vú phụ chỉ có núm vú, bầu vú, mà không có tổ chức tuyến. Những vú phụ này không có khả năng biến thành ung thư. Nếu không ảnh hưởng tới thẩm mỹ, không vướng víu trở ngại tới hoạt động của cơ thể, bình thường cũng không có triệu chứng gì, thì cũng không cần phải xử lý. Ngoài ra, do có sự tồn tại của vú phụ chẳng có ích gì cho cơ thể, mà còn tệ hại hơn, thì nên nhờ các bác sĩ ngoại khoa mổ cắt bỏ để bảo đảm an toàn hơn. Cụ thể những trường hợp bệnh trạng sau đây nên giải phẫu cắt bỏ:
1. Các triệu chứng rõ rệt như vào thời kỳ kinh nguyệt, vú phụ bị sưng tấy, đau đớn, ấn vào càng đau hơn, ảnh hưởng tới cuộc sống hằng ngày.
2. Vú phụ quá lớn, ảnh hưởng tới hoạt động của cơ thể (như xuất hiện ở nách, cánh tay không khép vào được…).
3. Vú phụ đã ảnh hưởng tới thẩm mỹ, từ đó ảnh hưởng tới đời sống và xã giao của người bệnh.
4. Đã bị viêm, qua điều trị, đã tiêu viêm, nhưng cái bọc đó vẫn tồn tại.
5. Nếu khi vú phụ đã có biến chứng ung thư, thì phải xác định rõ xem bên vú bình thường có biến chứng ung thư không, nếu đã bị lan ra cả bên vú bình thường, thì cùng với việc cắt bỏ vú phụ phải cắt bỏ cả bên vú bình thường để chữa trị tận căn.
Ngoài ra, nếu như vú phụ chỉ có tổ chức tuyến vú, mà không có tuyến vú và bầu vú, trở thành cục bọc có tính khả thi, không thể xác định ngay được là u mỡ hay viêm hạch bạch huyết, thì có thể tìm hiểu kỹ về lịch sử bệnh lý, xem có liên quan gì đến chu kỳ kinh nguyệt, có thai và nuôi con bằng sữa mẹ. Khi cần thiết có thể các bác sĩ cho làm sinh thiết vú phụ để xét nghiệm và có cơ sở chẩn đoán chính xác hơn.
Do vùng nách là nơi tập trung dày đặc các hạch bạch huyết, vú phụ xuất hiện ở đây, một khi đã biến thành ung thư, thời kỳ đầu dễ chuyển đổi hơn. Bởi vậy, khi ở nách có hạch sữa phụ (hay tuyến sữa phụ) thường hay sưng đau theo chu kỳ kinh nguyệt, thì dù không phải là u ác tính, cũng nên xét tới khả năng can thiệp giải phẫu cắt bỏ, nhằm tránh dẫn tới khả năng chuyển thành ung thư
Tuyến vú phụ nách.
Hỏi:
Các chị ơi. Em chào mọi người, các chị cho em hỏi 1 vấn đề này được không ạ. Em gái em mang thai tháng thứ 4. Tuyến sữa của em gái em chạy xuống nách. Em kêu em em ra hà nội đi khám nhưng nó hông ra. Ai biết gì tư vấn giúp em.
Trả lời:
Chào bạn! Mình cũng bị như em gái bạn, trước kh có thai mình đã biết benh vì vo tình đi khám thôi, họ gọi đó là tuyến vú phụ nách bạn ạ có nghĩa là một phần tuyến vú ko wr đúng vị trí mà lan rộng sang phần nách, vậy em bạn bị một hay cả hai bên, vì thường ai bị sẽ bị cả hai bên mà, mình htif chỉ bị một bên thôi. Mình đã đi mổ, nhưng họ mổ mà ko lấy hết phần tuyến vú phụ nên hiện nay khi mình có thai một bên nách vẫn bị sưng đau khi ngực căng đau và to ra nữa, trông rất mất cảm tình, nhưng nó ko gây ra vấn dề gì nguy hiểm nếu đúng là tuyến vú phụ, chỉ vất vả cho em bạn khi có sữa và nuôi con bú thôi. Mình đã gần sinh, một bên nách to như quả trứng vậ, nhưng bạn à, có thai ko thể đi mổ bây giờ dược, em bạn đành chịu khó sinh xong và cai sữa con xong mới có thể tiến hành phẫu thuật. ngày trước mình đến viện 108 làm phẫu thuật đấy, chi phí mổ một bên khoảng hơn 1trieeu thôi...nhưng chắc do minh ko biêt chọn trước để nhờ b/s giỏi nên bây giờ tuyến vú phụ vẫn còn và gay phièn phức cho mình. Hy vong bạn đã có những thông tin mong muốn.
Hỏi:
mẹ love_storm ơi ! làm ơn cho mình hỏi thế nách sưng lên ấn tay vao mới thấy đau hay là k đau ? vì mình đang mang thai tháng thứ 4 2 nách cũng có cục, nhưng k to như quả trứng đâu, lấy tay ấn vào hơi đau một chút thôi . liệu mình có phải đi khám ngay k nhỉ ?
Trả lời:
Bạn à, hai bên nách chỉ đau khi ngực cũng căng đau thôi, khi chưa có thai, ngày đến tháng nó cũng đau nhưng thường thì rất nhẹ, chỉ ấn vào mới đau. Con to hay nhỏ là tùy mỗi người thôi, ai phần lan ra rộng thì sẽ to hơn. Theo mình thì chưa cần di khám ngay đâu, sinh xong bạn sẽ biết ngay mình bị tuyến vú phụ hay chỉ do thay đổi khi có thai thôi mà. Chỉ cần để ý là khi ngực đau thì nách cũng đau, ấn nhẹ vào mới đau, còn ko thì thôi, trong nách có những cục nhỏ và ko di động. Chúc bạn vui khỏe và ko có vấn đề gì với cái nách. Chỉ mấy một vài ngày nữa mình sinh rồi, chắc sẽ ít vào dd đc, chúc cả nhà may mắn và cả mình nữa...đây là lần đầu mình vượt cạn mà
Khổ sở vì nhũ hoa bất thường
Đi khám vì đau ngực, nghi có u, chị Cúc (quận 10, TP HCM) mới biết mình có rất nhiều tuyến vú. Còn chị Thanh, quê ở một tỉnh miền Tây, ngược lại, chỉ có một bên vú kể từ khi sinh ra.
Chị Cúc, 37 tuổi, thường cảm thấy có những khối u gần tuyến vú, gây căng đau vào kỳ kinh. Lo bị ung thư vú nên chị đến khám tại Bệnh viện Ung bướu TP HCM. Tại đây, sau khi chẩn đoán bằng siêu âm, bác sĩ cho biết ngoài tuyến vú bình thường, bệnh nhân này còn có thêm những tuyến vú phụ. Chính chúng đã căng đau vào kỳ hành kinh do sự xáo trộn nội tiết tố vào mỗi chu kỳ.
Bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng, Giám đốc Bệnh viện Ung bướu TP HCM, giải thích, vào tuần thứ 6 của thai kỳ, mô tuyến vú bắt đầu phát triển theo đường sữa từ nách đến vùng bẹn. Ở đa số trường hợp, đường sữa này bị thoái hóa vào tuần thứ 9 và chỉ còn lại tuyến vú ở bên ngực. Tuy nhiên, một số trường hợp không mất đi đường sữa mà giữ nó suốt đời nên có những tuyến vú phụ, hay tuyến vú lạc chỗ.
Tuyến vú phụ lành tính, không gây nguy hiểm, không tăng nguy cơ ung thư vú và có khi biểu hiện như một nốt ruồi. Nhưng cũng có trường hợp tuyến vú phụ có đầy đủ bộ phận như tuyến vú, núm vú, quầng vú, gây mất thẩm mỹ. Tùy từng trường hợp, bệnh nhân có thể giữ lại hoặc yêu cầu bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú phụ.
Bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng cho biết, bên cạnh chứng nhiều tuyến vú, không ít rối loạn khác ở bộ phận nhạy cảm này cũng đã làm khổ phụ nữ, chẳng hạn như khuyết tuyến vú, tuyến vú phì đại...
Hương, một cô gái quê ở miền Trung, đến Bệnh viện Ung bướu TP HCM khám vì chỉ có một bên vú. Qua thăm khám, bác sĩ thấy một bên ngực cô phát triển bình thường, một bên không có vú, nhìn kỹ thấy một vết sẹo nhỏ ở đầu vú. Hỏi kỹ nguyên nhân, bệnh viện mới biết một bên mầm vú đã bị cắt bỏ vì bác sĩ không phân biệt được khối u và sự phát triển tuyến vú ở bé gái.
Theo bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng, bé gái từ 7 đến 9 tuổi thường có một bên ngực phồng lên, hơi đau làm các bà mẹ lo sợ vì nghĩ rằng ở tuổi này, bé gái chưa dậy thì. Đây là hiện tượng xáo trộn nội tiết, chỉ gây ảnh hưởng một bên ngực chứ không phải dậy thì sớm, sau vài tháng sẽ hết. Vì vậy, các bà mẹ tuyệt đối không nên đắp dán thuốc làm viêm nhiễm vùng ngực gây sẹo xấu, hoặc làm tổn thương chồi vú.
Đối với bệnh nhân bị cắt oan một bên ngực nói trên, do lúc nhỏ ngực phát triển không đều, một bên ngực cộm hơn nên gia đình tưởng là khối u và thầy thuốc vô tình đã lấy đi chồi vú. Hiện cô gái này đã được các bác sĩ tạo hình tuyến vú bằng vạt mô sau lưng và đã lập gia đình. Cô chỉ có thể cho con bú ở một bên ngực còn lại.
Có những trường hợp bị khuyết một bên ngực do bẩm sinh do mắc hội chứng Poland, đó là chị Thanh, 40 tuổi, quê ở một tỉnh miền Tây Nam bộ. Đây là trường hợp bất thường trong phát triển tuyến vú, có thể gây khuyết một hoặc cả hai bên vú. Hiện nay, với kỹ thuật tạo hình tuyến vú, các bác sĩ có thể giúp những bệnh nhân này có bộ ngực cân đối với hình dáng bình thường.
Bệnh viện Ung bướu TP HCM cũng từng phẫu thuật cho một bệnh nhân 15 tuổi có tuyến vú phì đại với trọng lượng khoảng 15 kg. Đây là hội chứng phì đại tuyến vú do có sự xáo trộn bất thường về nội tiết tố. Đối với những trường hợp này, quyết định mổ trong tuổi dậy thì hay chờ hết tuổi dậy thì là tùy thuộc vào bệnh nhân và gia đình. Ở một số trường hợp khác, bệnh nhân bị phì đại tuyến vú sau khi sinh con cũng do nội tiết tố bị xáo trộn gây kích thích mô tuyến vú phát triển.
Bác sĩ Phạm Hùng Cường, Phó khoa Ngoại 2 Bệnh viện Ung bướu TP HCM, cho biết không chỉ bé gái mà ở bé trai cũng xảy ra những biến đổi bất thường tuyến vú trong giai đoạn dậy thì.
Nội tiết tố nam được tiết ra từ tinh hoàn và tuyến thượng thận, khi nó tăng hay giảm đều gây ra những rối loạn cho cơ thể. Nữ hóa tuyến vú thường do rối loạn nội tiết ở nam giới, dẫn đến chứng ngực to xảy ra ở người trẻ. Nữ hóa tuyến vú cũng thường làm các bé trai bối rối và tưởng mình mắc bệnh hoặc xem đó như một sự kỳ quái.
Tuy nhiên, chỉ sau 6 tháng hoặc một năm, khi nội tiết ổn định, tuyến vú tự nhiên sẽ xẹp lại. Nếu không, có thể đến thày thuốc để được điều trị bằng thuốc chống nội tiết hoặc phẫu thuật để lấy mô tuyến vú thừa.
Cấu tạo giải phẫu vú như thế nào?
Tuyến vú của giới nữ trưởng thành nằm ở mặt nông của cơ ngực lớn. Sau khi phát triển hoàn thiện, nhô ra trước, lộ dạng nửa quả cầu tròn, phía trên từ xương sườn thứ hai, phía dưới giáp với xương sườn thứ sáu, phía ngoài đến bên ngực nách, phía trong gần đến ranh giới xương ức. Thời kỳ mang thai cho con bú, tuyến vú phát triển đầy đủ, tăng lớn, có thể có lớp mỏng tổ chức tuyến vú bên dưới xương đòn, kéo thẳng đến ven ranh giới khối cơ lưng. Vị trí đầu vú ở ngay giữa tuyến vú, vòng ngoài có vùng quầng vú. Toàn bộ tuyến vú có vòng tròn bọc mỡ phong phú ngay dưới da, dính liền với tổ chức mỡ có hai mô gân nông và sâu giống như tấm lưới bao bọc, tổ chức sợi này ở giữa thuỳ tuyến vú hình thành bó sợi vuông góc với nhau, có tác dụng nâng đỡ nhất định, khiến buồng vú lộ ra dạng nửa quả cầu, và giữ cho vú ở trên vị trí thích hợp, từ đó mà hình thành vẻ đẹp giới tính của nữ giới.
Mỗi buồng vú có từ 15 - 20 thuỳ hợp thành, mỗi thuỳ lại chia thành nhiều thùy nhỏ, mỗi thuỳ nhỏ lại có rất nhiều nang tuyến, nang tuyến nối liền với ống tuyến nhỏ, thông qua ống tuyến nhỏ, trung bình và lớn hợp thành ống tuyến, cuối cùng mở ra miệng ở đầu vú.
Tuyến vú có rất nhiều ống bạch huyết, đường ra ống bạch huyết của tuyến vú gồm có:
(1) Đường hốc nách: Có khoảng 75% bạch huyết tuyến vú dẫn lưu qua hốc nách, sau khi ung thư tuyến vú xâm nhập vào ống bạch huyết tuyến vú, tế bào ung thư men theo đường này di chuyển đến hạch nách.
(2) Đường sữa trong: 25% bạch huyết tuyến vú dẫn lưu qua hạch xung quanh mạch máu trong buồng vú ở xương ức, đặc biệt là bạch huyết ở vùng hai bên trong và giữa tuyến vú.
Vì thế , tế bào ung thư ở vị trí này dễ di chuyển đến hạch trong tuyến vú. Đôi khi ống bạch huyết ở phần sâu buồng vú men theo cơ thẳng của bụng dẫn đến gan hoặc qua lưới bạch huyết ở lớp da buồng vú sang buồng vú đối diện, hốc nách, thậm chí đến hạch ở rãnh bụng đùi (háng).
Dựa vào vị trí, có thể chia hạch nách thành nhóm hạch dưới nách, ổ vùng bên dưới ranh giới ngoài cơ ngực bé; ở giữa ngực lớn và cơ ngực bé là nhóm hạch giữa nách; ở ranh giới trên cơ nhỏ ngực trở lên là nhóm hạch trên nách, khối u tuyến vú di chuyển trước tiên đến hốc nách hoặc hạch trong tuyến vú. Vì thế, y học gọi chúng là "hạch vị trí thứ nhất". Nhóm hạch này sinh trưởng ở trên tế bào ung thư của tuyến vú đến "chiếc xe buyết" bạch huyết ở hốc nách men theo ống bạch huyết đến nhóm hạch thứ nhất. Sau khi qua nhóm hạch thứ nhất, có thể dừng lại một thời gian rồi lại di chuyển đến nhóm hạch thứ hai, như nhóm hạch trên xương dòn (thượng đòn), cuối cùng lan tràn đến vị trí xa hơn nữa. Vì thế, hiểu được giải phẫu tuyến vú để chẩn đoán và điều trị khối u tuyến vú là điều rất quan trọng.
Vì sao trong cơ thể con người sẽ phát triển nhiều buồng vú?
Trong quá trình phát triển, phôi thai của con người sẽ hình thành một tuyến vú, đa số hình thành đôi tuyến vú. Nhưng trong quá trình phát triển, ở thai nhi trước khi sinh, bên dưới ngực lưu lại một đôi tuyến vú, còn đầu vú và tuyến vú khác đều biến mất. Nếu sau khi thai nhi được sinh ra, cùng lúc tuyến vú phát triển có thể lưu lại tàn dư tuyến vú ở vị trí nào đó, thì khi đó sẽ tạo ra tuyến vú phát triển khác thường. Sự phát triển khác thường của tuyến vú thường gặp có thể là:
(1) Chứng đa đầu vú: Tức ngoài đôi tuyến sữa bình thường, ở vị trí khác, phần nhiều ở phía trên ngoài tuyến vú bình thường, gầnn vùng nách hoặc bên dưới tuyến vú bình thường đa sinh trưởng đôi đâu vú.
(2) Chứng tuyến vú phụ hoặc đa tuyến vú: Ngoài tuyến vú bình thường, ở vị trí khác của tuyến vú phôi thai lưu lại tổ chức tuyến vú, thường thấy ở vị trí hốc nách, có thể một bên hoặc hai bên, thường không tồn tại đầu vú, cho nên khó phát hiện. Nhưng tổ chức tuyến vú phụ và tuyến vú bình thường giống nhau, đều bị ảnh hưởng của hormon mà phát sinh những thay đổi có tính chu kỳ, người bệnh sẽ có cảm giác bị sưng đau khó chịu. Khi người bệnh mang thai, tuyến vú phụ cũng lớn lên rõ. Sau khi người bệnh mãn kinh, tuyến vú phụ cũng có thể teo, thay thế bằng mô mỡ, hình thành khối u dày lên. Đương nhiên tuyến vú phụ cũng do tổ chức tuyến vú hợp thành, vì vậy cũng có thể phát sinh ung thư tuyến vú, nhưng tình trạng này rất hiếm gặp.
Người có nhiều vú, vì sao?
Những trường hợp vú phụ đã được nói đến từ thời La Mã trong các huyền thoại. Nữ thần Artemis có tầng tầng lớp lớp vú và nhiều nữ thần khác thời cổ đại được mô tả có rất nhiều hàng vú. Hoàng hậu, vợ vua Henry VIII có vú thứ 3. Nhiều người có niềm tin rằng nam giới có vú phụ chứng tỏ có nam tính và có quyền lực của thánh thần. Y văn ít mô tả về các kiểu vú phụ có thể do ý nghĩa về mặt lâm sàng không lớn nhưng hai thập kỷ gần đây chủ đề vú phụ được nói đến nhiều vì sự tranh cãi không ngã ngũ về mối nghi ngờ có phối hợp với những dị tật và bệnh tật hay không. Vú phụ còn có tên gọi đa nhũ là một dị tật bẩm sinh nhỏ và thường gặp, gồm có núm vú và/hoặc mô có liên quan, hay có ở trên ngực dọc theo đường vú phôi thai. Vú phụ lạc chỗ khi gặp ở ngoài đường vú phôi thai – gọi như thế vì có tiềm năng phát triển thành mô vú ở nhiều động vật. Ở người đường vú phôi thai đi từ một điểm ngoài hố nách trên cánh tay đi xuống ngực, bụng, bẹn và thường kết thúc ở mặt trong đùi mặc dù nhiều trường hợp có cả trên bàn chân. Vú phụ có thể có đầy đủ mô vú và các ống dẫn sữa, tiết sữa (trường hợp này gọi là polymastia) hoặc chỉ có một phần mô vú. Từ năm 1915, Kastia đã có bảng phân loại như sau: - Vú phụ đầy đủ (núm vú, quầng vú và mô tuyến, gọi là polymastia). - Núm vú và mô tuyến (không có quầng vú). - Quầng vú và mô tuyến (không có núm vú). - Chỉ có mô tuyến lạc chỗ. - Núm vú, quầng vú và mô vú giả (mô mỡ thay thế mô tuyến). - Chỉ có quầng vú. - Chỉ có đám lông. Vú phụ hay phối hợp với những bệnh gì? Rất nhiều bệnh thuộc các hệ thống khác nhau (thần kinh trung ương, tiêu hóa, xương, tai, mũi, họng, tim) và một số hội chứng như Turner, thiếu máu Fanconi và nhiều bệnh về máu khác... Có tác giả (Meshes, 1979) cho rằng vú phụ thường hay đi kèm với bất thường ở đường tiết niệu (thận) với tỷ lệ khoảng 23-27% như nhiễm khuẩn, dị tật hay ung thư nhưng chủ yếu do những bệnh gây nghẽn tắc. Các dạng lâm sàng Thông thường, vú phụ khó nhận biết hoặc không có triệu chứng gì. Đôi khi chỉ nhận thấy có vú phụ khi cơ thể có những thay đổi về hormon như ở tuổi vị thành niên, khi hành kinh hay khi có thai mới thấy tăng sắc tố, phồng to lên, cương đau hoặc thậm chí tiết sữa. Sau khi đẻ, có thể không nhận thấy có vú phụ vì chỉ là một nốt sắc tố nhỏ hay hơi lõm. 75% vú phụ chỉ bằng 1/3 núm vú bình thường nghĩa là đường kính không lớn hơn 0,2-0,3cm; 25% còn lại to bằng nửa núm vú bình thường; rất hiếm khi to bằng núm vú bình thường. Rất dễ lầm với các tổn thương khác. Hầu hết các trường hợp vú phụ chỉ có 1, khi có 2 hoặc nhiều hơn (có khi tới 8 vú phụ) thì phân bố ở cả 2 bên hoặc chỉ ở 1 bên, có thể đối xứng hay không. Các vú phụ thường thấy dưới núm vú bình thường, chỉ có khoảng 13% ở trên nhưng dọc theo đường vú. Khoảng 5% vú phụ bị lạc chỗ nghĩa là thấy ngoài đường vú như lưng, vai, 2 chi, cổ, âm hộ và cả mặt. Nhiều trường hợp vú phụ có tính di truyền gia đình, từ cha mẹ đến con cái; có trường hợp di truyền 4 thế hệ liên tiếp. Gen trội với biểu hiện không đầy đủ là hình thái di truyền thường được chấp nhận. Thái độ xử trí với vú phụ Nếu vú phụ phồng to, gây khó chịu, vướng víu thì có thể cắt bỏ. Cắt bỏ vú phụ có đầy đủ mô vú (polymastia) và lạc chỗ có thể cần cân nhắc và phức tạp hơn. Khi có vú phụ đơn độc và không thường xuyên xảy ra trong gia đình thì không nhất thiết phải kiểm tra toàn diện xem có các dị tật khác không, trừ phi kèm theo một dị tật nhỏ, một vú phụ nổi rõ và lạc chỗ hay đã có vú phụ lưu hành trong gia đình, họ hàng. Trong những trường hợp này, kiểm tra bằng siêu âm và làm các thăm dò về thận được chỉ định vì bệnh lý thận và đường tiết niệu có thể diễn biến thầm lặng. Báo cáo y học đầu tiên về vú phụ đã có từ 1878 với tần suất do Leichtenstern đưa ra là 1 cho 500 (0,2%). Tần suất vú phụ khác nhau theo từng khảo sát, ở dân số | |
BS. Đào Xuân Dũng |
(Theo SKDS )
Vú nằm lạc nhiều chỗ trên cơ thể
Theo các nhà chuyên môn, đó là những vú phụ, một dị tật bẩm sinh nhỏ, gặp ở cả nam và nữ. Chúng có thể chỉ bao gồm núm vú, hoặc có đầy đủ mô vú và các ống dẫn sữa.
Báo cáo y học đầu tiên về hiện tượng này đã có từ thế kỷ 19, với tần suất do nhà nghiên cứu Leichtenstern đưa ra là 0,2%, tức cứ 500 người thì một người có vú phụ. Các khảo sát sau đó cho kết quả chênh lệch nhau khá xa, chẳng hạn khảo sát ở Hungary năm 1979 cho kết quả 0,22%, ở trẻ sơ sinh Mỹ da đen năm 1982 cao gấp 7 lần, tức 1,63%, ở Israel cùng thời gian đó là là 2.5%.
Tại Đức, khảo sát năm 1998 cho thấy tỷ lệ người có vú phụ lên đến 5,6%. Sự khác biệt này có thể do vùng địa lý, nhóm chủng tộc hoặc phương pháp tiến hành nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, kể cả phương pháp khám phát hiện.
Những trường hợp vú phụ được nói đến từ thời La Mã trong các huyền thoại. Nữ thần săn bắn Artemis có tầng tầng lớp lớp vú. Nhiều nữ thần khác thời cổ đại được mô tả có rất nhiều hàng vú. Hoàng hậu của vua Henry 8 có vú thứ ba.
Vú có thể mọc ở… chân
Thông thường, vú phụ khó nhận biết hoặc không có triệu chứng gì. Đôi khi nó được phát hiện do cơ thể có sự thay đổi về hoóc môn như dậy thì, hành kinh, có thai…, khiến vú phụ có màu sẫm hơn, phồng to lên, cương đau hoặc thậm chí tiết sữa. Ở trẻ mới sinh, vú phụ có thể không được nhận biết vì nó chỉ là một nốt sắc tố nhỏ hay hơi lõm.
Trong 75% trường hợp, vú phụ chỉ lớn bằng 1/3 núm vú bình thường, nghĩa là đường kính chỉ 0,2 - 0,3 cm, số còn lại to bằng một nửa, rất hiếm trường hợp to bằng núm vú bình thường.
Hầu hết các trường hợp chỉ có một vú phụ, một số có hai hoặc nhiều hơn, thậm chí đến 8 vú phụ. Chúng phân bố ở cả hai bên hoặc chỉ một bên, có thể đối xứng hoặc không. Các vú phụ thường nằm dưới núm vú bình thường, một số ở phía trên nhưng vẫn nằm dọc theo đường vú. Tuy nhiên, khoảng 5% vú phụ bị lạc chỗ, nghĩa là nằm ngoài đường vú như lưng, vai, tay chân, cổ, âm hộ và cả mặt.
Có thể cắt bỏ
Lý giải về sự xuất hiện vú phụ, các nhà khoa học Saint-Hilari và Darwin thế kỷ 19 cho rằng đó là dấu vết sự tiến hóa của loài người từ động vật, người có vú lạc chỗ ở âm hộ cũng tương tự như cá heo và cá voi có vú ở vị trí đó. Vú lạc chỗ ở lưng, vùng xương bả vai và vai tương tự vị trí vú của một số loài gặm nhấm như hải ly.
Khoảng tuần thứ 4 - 5 của thai kỳ, nếp ngoại bì phát triển từ vùng nách đến mặt trong của đùi để tạo nên đường sữa chạy dài dọc cơ thể. Sau đó, các thành phần tuyến của vú được hình thành ở gần xương sườn thứ 4 và 5, phần ngoại bì còn lại thoái hoá dần. Nếu không có sự thoái hoá, vú phụ sẽ hiện diện.
Trước đây, y văn ít mô tả về vú phụ do cho rằng nó có ít ý nghĩa về mặt lâm sàng. Nhưng hai thập kỷ gần đây, nó được nói đến nhiều do sự tranh cãi không ngã ngũ về việc vú phụ có đi kèm với bệnh tật hay không. Có nhà khoa học cho rằng, 1/ 4 số trường hợp vú phụ đi kèm với bất thường ở đường tiết niệu như nhiễm khuẩn, dị tật hay ung thư.
Nếu vú phụ phồng to, gây khó chịu, vướng víu nên xem xét cắt bỏ. Ca phẫu thuật có thể phức tạp, khi vú phụ có đầy đủ mô tuyến sữa và nằm lạc chỗ. Nếu chỉ có một vú phụ và hiện tượng này không lặp lại trong gia đình. Nếu vú phụ nổi rõ, lạc chỗ, kèm theo một dị tật nhỏ hay gia đình, dòng họ có người khác cũng bị thì nên kiểm tra bằng siêu âm và làm các thăm dò về thận.
BS Đào Xuân Dũng
BẠN BIẾT GÌ VỀ UNG THƯ VÚ ?
BS Nguyễn Ngọc Hiền
- Ung thư vú là gì ?
Vú phụ nữ là 1 tuyến sữa bao gồm nhiều thùy tuyến (lobes) tiết ra sữa, qua các ống dẫn ngoằn ngoèo từ nhỏ đến to dần và cuối cùng đổ ra núm vú. Tất cả nằm trong một tổ chức đệm gồm mỡ và sợi. Tuyến sữa nằm dưới da và ngoài cơ ngực, được nuôi dưỡng bởi hệ thống nhiều mạch máu. Ngoài ra còn có hệ thống bạch mạch dẫn bạch huyết từ vú ra ngoài qua 3 ngã: nách, dưới xương đòn và bên trong ngực (mamaire interne). Khi các tế bào tuyến hoặc tế bào nền các ống dẫn phát triễn quá mức, không kiểm soát được sẽ sinh ra ung thư vú (đó cũng là cách thường thấy trong sự hình thành các ung thư khác).
Khi ung thư còn khu trú bên trong tuyến hoặc ống, gọi là ung thư tại chổ (in situ). Nếu được phát hiện ở giai đoạn này, cơ may chữa khỏi rất cao – có thể đến 100% - nhưng thường rất hiếm khi ung thư được phát hiện trong giai đoạn này. Khi ung thư đã lan ra ngoài, xâm lấn vào tổ chức đệm chung quanh gọi là ung thư xâm lấn. Tế bào ung thư có thể theo các đường bạch mạch (hệ thống mạch bạch huyết) lan ra các nơi xa, vào các hạch bạch huyết vùng (nách, dưới xương đòn ...), chúng cũng có thể theo các mạch máu đi đến các nơi xa như xương, phổi, gan... Tại những nơi đó chúng phát triễn thành những khối ung thư gọi là di căn.
- Các yếu tố nguy cơ.
- Phụ nữ trên 40 tuổi
- Gia đình có người bị ung thư vú (mẹ, chị), đặc biệt là họ bị ung thư vú lúc dưới 45 tuổi.
- Đã bị ung thư vú trước đó (đã được điều trị)
- Đã bị loạn sản tuyến vú
- Có các vấn đề về kích thích tố nữ (hormone) như: có kinh sớm (trước 15 tuổi), tắt kinh trễ (sau 50 tuổi), không có con, có con đầu sau 35 tuổi.
- Chế độ ăn uồng: ăn nhiều thịt đỏ, mỡ động vật, uống rượu
- Béo phì. Ít vận động
- Dấu hiệu và triệu chứng gợi ý.
Trong giai đoạn sớm, có rất ít các dấu hiệu hoặc triệu chứng giúp phát hiện ung thư vú. Khi có các triệu chứng rõ ràng thì ung thư đã qua giai đoạn xâm lấn. Tuy nhiên có thể dựa vào các dấu hiệu và triệu chứng gợi ý để chú ý đến và thực hiện thêm các thăm dò, xét nghiệm cần thiết để phát hiện bệnh:
- Núm vú cứng hoặc thụt vào bên trong vú (chỉ có giá trị ở những người trước đó núm vú bình thường).
- Rỉ máu ở đầu núm vú
- Ngứa hoặc loét ở đầu núm vú
- Thay đổi ở da trên vú (sần sùi, mản cứng, da cam, đổi màu...)
- Làm sao phát hiện sớm ung thư vú?
Tại nhiều nước có nền kinh tế phát triển chụp nhủ ảnh (mamographie) là phương tiện được khuyến cáo để phát hiện sớm ung thư vú. Ở Mỹ, nhiều nước Âu châu. .. có chương trình chụp nhủ ảnh cho phụ nữ trên 40 tuổi đã giúp giảm tỷ lệ tử vong do ung thư vú 50%. Gần đây có khuyến cáo đối với các nước đang phát triển nên sử dụng siêu âm như là phương tiện tầm soát u vú trong cộng đồng. Những trường hợp phát hiện có u hoặc có nghi ngờ (có yếu tố nguy cơ) sẽ chuyển chụp nhủ ảnh, vì siêu âm rẽ tiền, không độc hại, có thể thực hiện đại trà trong cộng đồng và có thể phát hiện các khối u vú nhạy hơn nhủ ảnh. Tuy nhiên siêu âm phân biệt u lành với ung thư không chính xác bằng nhủ ảnh, nhất là đối với các u nhỏ.
Tự khám vú đúng cách là phương tiện rất tốt để phát hiện sớm ung thư vú. Theo GS Nguyễn Chấn Hùng, đối với Việt
1- Đứng trước gương, đưa cánh tay cao trên đầu, qun sát kỹ vú và đầu vú xem có thay đổi gì không (so với những lần trước)
2- Nằm ngữa, dùng đầu các ngón tay khám vú từ dưới lên trên và từ trong ra ngoài, rôid đến hố nách xem có phát hiện ra khối cứng nào trong vú không, xem núm vú có cứng hay thụt vào không.
3- Bóp nhẹ núm vú xem có cứng, đau hay chảy dịch (hoặc máu) không?
Nếu thấy có gì bất thường nên đến bác sĩ chuyên khoa để được hướng dẫn kỹ hơn.
1- Đứng thẳng trước gương, cánh tay đưa cao quá đầu. Quan sát, phát hiện những thay đổi ở vú, núm vú. 2- Nằm ngữa, khám vú bằng các đầu ngón tay, từ dưới lên và từ trong ra. Khám hố nách. 3- Bóp nhẹ núm vú xem có khối cứng ? có tiết dịch ? Nguồn:
- Chẩn đoán ung thư vú.
Để phát hiện ung thư vú bác sĩ sẽ dựa vào:
- Khám lâm sàng: BS sẽ khám vú có hệ thống để tìm ra các thay đổi bẩt thường trong vú như 1 hay nhiều khối cứng, mãn tổ chức xơ, nang, tình trạng núm vú, có dịch ở núm vú, hạch ở nách, ở vùng trên đòn ...
- Siêu âm vú: Có thể phát hiện rất sớm các thay đổi cấu trúc bên trong vú nhu viêm xơ tuyến vú, nang, u, hạch ở nách...và tính chất các cấu trúc đó.
- Nhủ ảnh: Cho thấy các điểm vôi hóa dạng đặc biệt trên tuyến vú, các dấu hiệu đặc hiệu của ung thư vú.
Để khẳn định ung thư vú, BS cần làm sinh thiết khối u để xét nghiệm giải phẫu bệnh (nhuộm, quan sát dưới kính hiển vi). Có thể:
- Sinh thiết với kim nhỏ (FNA): phương pháp này nhẹ nhàng, ít đau nhưng kết quả ít chắc chắn.
- Chọc hút với kim sinh thiết (tru-cut): dùng kim có móc, chọc lấy ra 1 mãnh nhỏ khối u, kết quả tốt hơn.
- Mổ lấy trọn khối u (sinh thiết trọn) để làm xét nghiệm giải phẫu bệnh: phương pháp này cho biết kết quả chắc chắn hơn.
Bác sĩ sẽ xác định có phải là ung thư hay không, nếu là ung thư thì sẽ phân độ ung thư, theo đó sẽ có cách điều trị phù hợp. Mỗi nước sử dụng bảng phân độ khác nhau. Ở Việt
- Độ 0 : Ung thư tại chổ (cancer in situ)
- Độ I : T1 (u <>
- Độ II: T2 (u 2-5cm), N1 (có hạch di căn), M0 (không có di căn xa)
- Độ III: T3 (u > 5cm-xâm lấn ra da), N1,2, Mx (có hay không có di căn xa)
- Độ IV: T3-T4, N2, M1... (có di căn xa)
và bảng phân độ (Grade): G1, G2, G3.
Ngoài ra phải xác định thụ thể oestrogene (ER) dương (+) hay âm (-)
Điều trị ung thư vú như thế nào?
Cũng như các ung thư khác, ung thư vú được phát hiện càng sớm tỷ lệ điều trị khỏi càng cao. Người ta ước tính nếu ung thư vú được phát hiện ở độ 0, tỷ lệ được chữa khỏi là 95%, độ I: 75%, độ II: 60%, độ III: 40%, độ IV tỷ lệ này chỉ còn 20%.
Điều trị ung thư vú có 2 phần:
1- Điều trị tại chổ - vùng (locoregional): Tùy theo mức độ ung thư người ta cắt bỏ bướu kèm theo tổ chức chung quanh (nếu ở độ 0, I) hoặc bắt bỏ toàn bộ vú (mastectomie) kèm theo cơ ngực, nạo hạch nách. (nếu ở độ II trở lên).
2- Điều trị hệ thống (toàn thân): Tế bào ung thư có thể theo dòng bạch huyết hoặc máu di căn rất xa nên sau phẫu thuật phải phối hợp với hóa trị và xạ trị (gọi là điều trị đa mô thức). Cuối cùng nên dùng thuốc kháng oestrogene (tamoxifen và các thuốc tương tự) lâu dài (ít nhất 5 năm) đề phòng bệnh tái phát. Tamoxifen cũng còn được dùng cho những người có nguy cơ (như đã nêu ở trên) để phòng ngừa ung thư vú. Có một số nghiên cứu cho thấy đối với các ung thư vú từ độ 0 – II, có ER (+), sau khi mổ chỉ cần dùng Tamoxifen 20mg/ngày trong 5 năm, không hóa trị, không xạ trị vì hóa trị có nhiều tác dụng phụ như làm rụng tóc, xạm da và suy kiệt cơ thể. Tuy nhiên chúng tôi thấy nên điều trị đa mô thức an toàn cho bệnh nhân hơn, ngoại trừ trường hợp bệnh nhân dị ứng với các thuốc hóa trị.
Sau điều trị cần có chương trình tập luyện cho người bệnh (tập vận động tay bên có vú bị cắt bỏ, xoa bóp thường xuyên cánh tay để tránh bị tắt các mạch bạch huyết...), tập thể dục và thay đổi chế độ ăn uống để giảm cân (nếu người bệnh dư cân). Ngoài ra người bệnh nên tham gia các hội người bị ung thư vú để cùng sinh hoạt, trao đổi kinh nghiệm.
- Phòng ngừa ung thư vú:
Giảm thiểu các yếu tố nguy cơ: có 1 số nguy cơ có thể giảm được như: giảm ăn các loại thịt đỏ, mỡ động vật, ăn nhiều rau, quả, các chế phẩm đậu nành, giảm cân, tránh béo phì, bỏ uống rượu, thường xuyên tập thể dục, năng hoạt động tránh sống thụ động. Đối với các phụ nữ có nguy cơ không thay đổi được như có kinh sớm, tắt kinh trễ, gia đình có người bị ung thư vú, bản tân có loạn sản tuyến vú, nên uống tamoxifen 20mg ngày để phòng tránh ung thư vú.
Các chương trình tầm soát ung thư vú được áp dụng tại nhiều nước đã giúp phát hiện sớm ung thư vú nhờ đó đã hạ thấp tỷ lệ tử vong do ung thư vú một cách đáng kể. Hiệp hội ung thư châu Âu đã đưa ra hướng dẫn tầm soát ung thư được cho là đơn giản và có hiệu quả:
- Phụ nữ dưới 40 tuổi:
- Tự khám vú 1 lần / tháng
- Khám định kỳ (bởi BS chuyên khoa) 1 lần / 3 năm
- Chụp nhủ ảnh (làm chuẩn để so sánh sau này)
- Phụ nữ 40 tuổi trở lên:
- Tự khám vú 1 lần / tháng
- Khám định kỳ (bởi BS chuyên khoa) 1 lần / mỗi năm
- Chụp nhủ ảnh mỗi năm 1 lần
Nếu thực hiện được các hướng dẫn trên chúng tôi tin chắc rằng ung thư vú không còn là nỗi ám ảnh đáng sợ của phụ nữ.
ĐẠI CƯƠNG VỀ UNG THƯ VÚ
Tác giả: GS-TS: Nguyễn Bá Đức, TS: Trần Văn Thuấn
Sự hình thành phát triển và sinh lý của tuyến tuyến vú
Vú hay tuyến sữa là cơ quan rất quan trọng đảm bảo sự sống cho trẻ mới sinh cũng như trong việc duy trì giống nòi. Vì vậy, những hiểu biết về hình thái và sinh lý học của vú cùng những mối liên quan với nhiều tuyến nội tiết khác là cực kỳ cần thiết để nghiên cứu về sinh lý bệnh cũng như giúp ích rất nhiều trong điều trị các bệnh lý lành tính, tiền ác tính hoặc ác tính của tuyến vú.
Thời kì phôi thai
- Ở tuần thứ 5 của thai nghén, lá phôi sữa ngoại bì nguyên thuỷ hay "dải sữa" (galactic bùng) phát triển từ nách tới háng của thân phôi. ở vùng ngực, dải này phát triển tạo thành 1 mào tuyến vú, trong khi phần còn lại của dải sữa sẽ thoái triển. ở khoảng 2-6% các trường hợp có sự thoái triển hoặc phát tán không hoàn toàn của dải sữa nguyên thuỷ dẫn tới sự hình thành vú phụ.
- Đến tuần thứ 7-8 của thời kỳ thai nghén, xảy ra hiện tượng này tuyến vú (giai đoạn đồi sữa - milk hill stage), tiếp sau là sự lõm vào trong mô giữa thành ngực (giai đoạn đun và phát triển 3 chiều (giai đoạn hình cầu). Mô giữa thành ngực sẽ tiếp tục xâm lấn làm dẹt mào tuyến vú (giai đoạn hình nón) ở tuần 10-14 của thai nghén. Giữa luẩn 12-16 của thai nghén, các tế bào mô -giữa sẽ biệt hoá thành cơ trơn của núm vú và quang vú. Biểu mô nụ phát triển (giai đoạn nụ) rồi phân nhánh thành 15-25 dải biểu mô (giai đoạn phân nhánh) ở tuần 16 của thai nghén; đây là các dải đại diện cho các nang tiết sau này. Tiếp đó, vú thứ 2 sẽ phát triển, cùng với sự biệt hoá của các nang lông, tuyến bã, tuyến mồ hôi, nhưng chỉ có tuyến mồ hôi là phát triển hoàn chỉnh ở thời điểm này. Về mặt nguồn gốc, nhu mô vú được cho là phát triển từ mô tuyến mồ hôi. Ngoài ra, các tuyến bán huỷ đặc biệt phát triển tạo thành các tuyến
- Trong thời gian 3 tháng cuối, các hormon sinh dục của nhau thai xâm nhập vào hệ tuần hoàn của thai và tạo ra các kênh của biểu mô nhánh. Quá trình này tiếp tục từ tuần thứ 20 tới tuần thứ 30 của thai nghén. Cùng thời gian đó, có sự hình thành 15-25 ống vú, cùng sự kết dính của ống và tuyến bã ở gần biểu bì. Quá trình biệt hoá nhu mô xảy ra từ tuần 32 tới 40 với sự phát triển cấu trúc các nang-tiểu thùy có chứa sữa non (giai đoạn túi cùng). Tại thời điểm này, khối lượng tuyến vú tăng gấp 4 lần, quầng và núm vú phát triển và trở nên sẫm màu. ở trẻ sơ sinh, tuyến vú bị kích thích sẽ tiết ra sữa non (đôi khi còn gọi là sữa witch), nó có thể xuất hiện ở núm vú đa số các trẻ sơ sinh dù thuộc giới nào sau đẻ 4-7 ngày. Còn ở những trẻ mới đẻ, tiết sữa non giảm dần trong giai đoạn 3-4 tuần và teo vú .do hết các hormon nhau thai. Trong thời kỳ niên thiếu, các túi cùng sẽ tiếp tục kênh hoá và phát triển thành các cấu trúc ống, to lên và chia nhánh.
Sự phát triển bất thường của tuyến vú
Các bất thường bẩm sinh
Bất thường phổ biến nhất là có thêm một vú phụ. Nguyên nhân xuất hiện của vú phụ có thể do sai sót của quá trình nhiễm sắc nevi, và có thể xảy ra ở bất cứ điểm nào dọc lá phôi sữa từ nách tới háng. Rất hiếm có thể gặp tuyến vú phụ phát triển. Trong thời kỳ có thai và cho con bú, vú phụ này cũng có thể to lên.
Thiểu sản là tình trạng tuyến vú kém phát triển, có trường hợp không có tuyến vú bẩm sinh. Có rất nhiều các bất thường của vú và được phân loại như sau :
· Thiểu sản vú 1 bên, bên đối diện bình thường.
· Thiểu sản vú 2 bên.
· Quá sản vú 1 bên, bên đối diện bình thường.
· Quá sản vú 2 bên.
· Thiểu sản vú 1 bên, bên đối diện quá sản.
· Thiểu sản 1 bên vú, lồng ngực và các cơ ngực (hội chứng
Đa số các bất thường này đều không có gì nghiêm trọng.
Các bất thường mắc phải
Bất thường phổ biến nhất là tật không có vú (amazia). Chỉ định sinh thiết vú không đúng khi vú đang phát triển trước dậy thì có thể cắt mất phần nhiều quầng vú và hậu quả là gây biến dạng vú trong thời kỳ dậy thì. Điều trị tia xạ cho các trẻ gái chưa dậy thì do bị u máu ở vú hoặc có bệnh ở lồng ngực cũng có thể gây vú không phát triển. Các nguyên nhân khác như bỏng nặng gây co kéo, nếu xảy ra trong khi tuyến vú đang phát triển cũng có thể dẫn đến hậu quả là vú bị biến dạng.
Sự phát tbiển bình thường thường của vú trong thời kỳ dậy thì
Quá trình dậy thì ở trẻ gái bắt đầu ở tuổi 10-12. Các tế bào ưa kiềm ở thuỳ trước tuyến yên giải phóng ra FSH và LH. FSH kích thích các nang nguyên thuỷ chín thành các nang Graaf, các nang này sẽ tiết ra estrogen mà chủ yếu là 17 -estradiol. Đây là hormon kích thích sự phát triển của vú và các cơ quan sinh dục. Trong vòng 1 -2 năm đầu sau khi có kinh nguyệt, chức năng trục dưới đồi-yên- thượng thận không cân bằng vì sự chín của các nang nguyên thuỷ không gây được rụng trứng hoặc pha hoàng thể. Do vậy quá trình tổng hợp estrogen ở buồng trứng trội hơn so với tổng hợp progesteron ở hoàng thể. Tác dụng sinh lý của estrogen lên sự phát triển vú là kích thích các ống biểu mô phát triển dài ra. Các ống tận cũng tạo thành các nụ và nó dự báo sự phát triển của thuỳ vú. Đồng thời, các tổ chức mô liên kết quanh ống cũng phát triển, tăng về thể tích và độ đàn hồi, kèm theo là sự gia tăng các mạch máu và mô mỡ. Những thay đổi ban đầu này là nhờ estrogen được tổng hợp tại các nang trứng không rụng trứng. Tiếp đó là có rụng trứng và progesteron được giải phóng từ hoàng thể. Trong các nghiên cứu thực nghiệm, estrogen đơn thuần gây được sự phát triển các ống tuyến còn progesteron đơn thuần thì không. Kết hợp 2 hormon có thể gây được sự phát triển hoàn chỉnh các ống-nang-thuỳ của mô tuyến vú. Sự phát triển tuyến vú ở mỗi người là khác nhau nên không thể phân loại những thay đổi mô học dựa trên cơ sở tuổi. Sự phát triển vú theo tuổi được mô tả dựa trên những thay đổi hình thể ngoài. Tiến triển của vú từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành được chia làm 5 giai đoạn (GĐ), theo Tanner như sau :
GĐ 1 : Núm vú nhô lên nhưng không sờ thấy mô tuyến, quầng vú chưa sẫm màu.
GĐ 2 (Tuổi ll-12) : Xuất hiện mô tuyến ở vùng dưới quầng vú. Núm vú và mô tuyến vú nhô lên ở thành ngực.
GĐ 3 (Tuổi 12-13) : Tăng số mô vú có thể sờ được, vú to lên, tăng về đường kính và quầng vú sẫm màu hơn.
GĐ 4 (Tuổi 13-14) : Quầng vú to lên và sẫm màu hơn. Núm vú và quầng vú tạo thành mô thứ 2 cao hơn vú.
GĐ 5 (Tuổi 14- 16) : Phát triển đường viền cơ trơn hoàn chỉnh.