Thứ Tư, 18 tháng 2, 2009

Một số vấn đề về tuyến vú phụ

Một hôm, có một chị tới phòng khám của tôi xin khám bệnh, trên tay chị còn có cả một đứa bé mới được mấy tháng tuổi. Chị nói với tôi, sau khi chị sinh cháu bé, bên hốc nách phải luôn có một khối u, rất đau, có lúc còn kèm theo cơn sốt, tới bệnh viện của cơ quan khám, bác sĩ bảo bị viêm hạch bạch huyết cấp tính.

Dùng thuốc kháng khuẩn truyền vào tĩnh mạch là khỏi. Mỗi lần tiêm truyền như vậy, khối u mất liền, nhưng chẳng bao lâu lại thấy xuất hiện, đã nhiều lần như vậy rồi. Lần này tái phát là do thời tiết trở rét, khối u nách lại lớn lên rất nhanh, kèm theo cơn sốt cao, nên chị phải tới một bệnh viện lớn hơn xin khám cấp cứu. Sau khi thăm khám, bác sĩ nói: “Cục u ở nách bên phải không phải là viêm kết hạch bạch huyết cấp tính, mà là viêm tuyến vú phụ, tốt nhất là mổ, cắt bỏ đi”. Nghe vậy, chị thắc mắc rất nhiều. Về vú phụ, trước đây chị cũng đã nghe nói, nhưng chỉ biết rằng tuyến vú phụ này không ảnh hưởng tới sức khỏe người phụ nữ, có thể không cần xử lý gì cả. Tại sao nay bác sĩ lại bảo chị phải mổ cắt bỏ? Chị nghi ngờ hay bác sĩ quan trọng hóa vấn đề, nên đã tới phòng khám của tôi xin khám lại.

Nghe người phụ nữ kể xong, tôi liền tiến hành thăm khám cho chị, thấy cục u bên nách phải của chị quả là một viêm tuyến vú phụ, hơn nữa hình như đã mưng mủ. Ở bên nách trái của chị, phần đối xứng còn có cả đầu vú, và chạm tới cả khối mỡ dày. Ý kiến của bác sĩ nọ có lý. Xem ra nhiều người chưa biết nhiều về sự xuất hiện, tác hại của tuyến vú phụ nên đã có những thắc mắc.

Tuyến vú phụ là hiện tượng nhắc lại giống

Gọi là tuyến vú phụ (hay tuyến sữa), tức là vú phụ như người ta vẫn nói, là sự dị dạng của tuyến sữa có tính bẩm sinh, tức là chỉ, ngoài cặp vú bình thường ra, còn mọc thêm một hoặc nhiều vú hoặc đầu vú, còn gọi là nhiều vú hoặc nhiều đầu vú. Hiện tượng này không hiếm, có cả ở nam lẫn nữ, nhưng ở nữ nhiều hơn (5%).

Tuyến vú phụ thuộc về di tích của phôi thai, giống như ở một số ít người mọc đuôi chẳng hạn, tuyến vú phụ cũng có thể coi là một hiện tượng nhắc lại giống thủy tổ loài người. Như chúng ta đã biết, loài người tiến hóa từ loài động vật có vú, mà động vật có vú thì nói chung là nhiều vú. Trong quá trình phát triển, phôi thai loài người ban đầu cũng có nhiều đôi vú được phân bố trên thành bụng, được gọi là cái “nền ban đầu của vú”, thai nhi đến tuần lễ thứ 9, “nền ban đầu của vú” khác còn lại tự thoái hóa mất đi, chỉ để lại 2 vú trên ngực là phát triển thành vú bình thường như ngày nay. Nếu như các dấu ấn “nền vú khác” không thoái hóa, sẽ thành nhiều bầu vú hoặc núm vú. Vị trí sinh trưởng của vú phụ thường là ở cạnh trong dưới vú bình thường hoặc phía ngoài trên vú. Thường gặp nhất là ở nách, đôi khi ở vị trí khác trên cơ thể, như ở bụng hoặc háng. Rất ít khi xuất hiện ở những chỗ khác như: tai, mặt, cổ, trên cánh tay, ở mông hoặc trên bộ phận sinh dục. Vú phụ có thể là đối xứng, cũng có thể là đơn độc một bên, đúng là “muôn hình vạn trạng”.

Vú phụ ảnh hưởng tới sức khỏe như thế nào?

Vú phụ có ảnh hưởng tới sức khỏe không phải xét tình hình cụ thể. Có những tuyến vú phụ chỉ có núm vú, bầu vú mà không có tổ chức tuyến thể, không có khả năng phát triển thành u ác tính (hay u bướu ung thư), không có ảnh hưởng xấu tới sức khỏe. Có những tuyến vú phụ thì lại có tổ chức kết cấu như vú bình thường, cũng chịu ảnh hưởng tới nội tiết tố sinh dục nữ như thường. Chẳng hạn, cũng giống như vú bình thường, trong kỳ kinh nguyệt, trong thời kỳ mang thai hoặc trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ, vú phụ cũng sưng đau, những vú phụ phát triển tốt, trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ còn có thể tiết ra chút ít sữa, đặc biệt là số ít vú phụ ở ngực khi thông với vú bình thường, còn có thể bóp cho sữa sang vú bình thường hoặc không có núm vú, sữa do nó tiết ra vì không có chỗ thải, tích tụ lại sẽ bị sưng đau gây viêm, thậm chí dẫn tới mưng mủ.

Ngoài ra, vú phụ còn có thể gây viêm hạch sữa, nhánh nhỏ hạch sữa tăng sinh, thậm chí gây nên các khối u lành tính và cả u ác tính. Tỷ lệ sinh bệnh ở vú phụ cao hơn vú bình thường. Không những như vậy, vú phụ còn gây chẩn đoán sai trên lâm sàng khá cao. Chẳng hạn như viêm tuyến vú phụ ở nách thường bị các bác sĩ chẩn đoán nhầm là u mỡ. Thậm chí ung thư tuyến vú phụ lại bị chẩn đoán là viêm hạch bạch huyết thông thường. Xét từ góc độ này, sự tệ hại của các bệnh về vú phụ đã vượt xa các tật bệnh do vú bình thường gây nên.

Vậy vú phụ có cần mổ cắt bỏ?

Sự nguy hại của vú phụ đã lớn như vậy thì có cần mổ cắt bỏ? Thật ra cũng cần phải xem tình hình thực tế cụ thể như thế nào. Như đã đề cập ở phần trên, có những vú phụ chỉ có núm vú, bầu vú, mà không có tổ chức tuyến. Những vú phụ này không có khả năng biến thành ung thư. Nếu không ảnh hưởng tới thẩm mỹ, không vướng víu trở ngại tới hoạt động của cơ thể, bình thường cũng không có triệu chứng gì, thì cũng không cần phải xử lý. Ngoài ra, do có sự tồn tại của vú phụ chẳng có ích gì cho cơ thể, mà còn tệ hại hơn, thì nên nhờ các bác sĩ ngoại khoa mổ cắt bỏ để bảo đảm an toàn hơn. Cụ thể những trường hợp bệnh trạng sau đây nên giải phẫu cắt bỏ:

1. Các triệu chứng rõ rệt như vào thời kỳ kinh nguyệt, vú phụ bị sưng tấy, đau đớn, ấn vào càng đau hơn, ảnh hưởng tới cuộc sống hằng ngày.

2. Vú phụ quá lớn, ảnh hưởng tới hoạt động của cơ thể (như xuất hiện ở nách, cánh tay không khép vào được…).

3. Vú phụ đã ảnh hưởng tới thẩm mỹ, từ đó ảnh hưởng tới đời sống và xã giao của người bệnh.

4. Đã bị viêm, qua điều trị, đã tiêu viêm, nhưng cái bọc đó vẫn tồn tại.

5. Nếu khi vú phụ đã có biến chứng ung thư, thì phải xác định rõ xem bên vú bình thường có biến chứng ung thư không, nếu đã bị lan ra cả bên vú bình thường, thì cùng với việc cắt bỏ vú phụ phải cắt bỏ cả bên vú bình thường để chữa trị tận căn.

Ngoài ra, nếu như vú phụ chỉ có tổ chức tuyến vú, mà không có tuyến vú và bầu vú, trở thành cục bọc có tính khả thi, không thể xác định ngay được là u mỡ hay viêm hạch bạch huyết, thì có thể tìm hiểu kỹ về lịch sử bệnh lý, xem có liên quan gì đến chu kỳ kinh nguyệt, có thai và nuôi con bằng sữa mẹ. Khi cần thiết có thể các bác sĩ cho làm sinh thiết vú phụ để xét nghiệm và có cơ sở chẩn đoán chính xác hơn.

Do vùng nách là nơi tập trung dày đặc các hạch bạch huyết, vú phụ xuất hiện ở đây, một khi đã biến thành ung thư, thời kỳ đầu dễ chuyển đổi hơn. Bởi vậy, khi ở nách có hạch sữa phụ (hay tuyến sữa phụ) thường hay sưng đau theo chu kỳ kinh nguyệt, thì dù không phải là u ác tính, cũng nên xét tới khả năng can thiệp giải phẫu cắt bỏ, nhằm tránh dẫn tới khả năng chuyển thành ung thư

Tuyến vú phụ nách.

Hỏi:
Các chị ơi. Em chào mọi người, các chị cho em hỏi 1 vấn đề này được không ạ. Em gái em mang thai tháng thứ 4. Tuyến sữa của em gái em chạy xuống nách. Em kêu em em ra hà nội đi khám nhưng nó hông ra. Ai biết gì tư vấn giúp em.

Trả lời:
Chào bạn! Mình cũng bị như em gái bạn, trước kh có thai mình đã biết benh vì vo tình đi khám thôi, họ gọi đó là tuyến vú phụ nách bạn ạ có nghĩa là một phần tuyến vú ko wr đúng vị trí mà lan rộng sang phần nách, vậy em bạn bị một hay cả hai bên, vì thường ai bị sẽ bị cả hai bên mà, mình htif chỉ bị một bên thôi. Mình đã đi mổ, nhưng họ mổ mà ko lấy hết phần tuyến vú phụ nên hiện nay khi mình có thai một bên nách vẫn bị sưng đau khi ngực căng đau và to ra nữa, trông rất mất cảm tình, nhưng nó ko gây ra vấn dề gì nguy hiểm nếu đúng là tuyến vú phụ, chỉ vất vả cho em bạn khi có sữa và nuôi con bú thôi. Mình đã gần sinh, một bên nách to như quả trứng vậ, nhưng bạn à, có thai ko thể đi mổ bây giờ dược, em bạn đành chịu khó sinh xong và cai sữa con xong mới có thể tiến hành phẫu thuật. ngày trước mình đến viện 108 làm phẫu thuật đấy, chi phí mổ một bên khoảng hơn 1trieeu thôi...nhưng chắc do minh ko biêt chọn trước để nhờ b/s giỏi nên bây giờ tuyến vú phụ vẫn còn và gay phièn phức cho mình. Hy vong bạn đã có những thông tin mong muốn.

Hỏi:
mẹ love_storm ơi ! làm ơn cho mình hỏi thế nách sưng lên ấn tay vao mới thấy đau hay là k đau ? vì mình đang mang thai tháng thứ 4 2 nách cũng có cục, nhưng k to như quả trứng đâu, lấy tay ấn vào hơi đau một chút thôi . liệu mình có phải đi khám ngay k nhỉ ?

Trả lời:
Bạn à, hai bên nách chỉ đau khi ngực cũng căng đau thôi, khi chưa có thai, ngày đến tháng nó cũng đau nhưng thường thì rất nhẹ, chỉ ấn vào mới đau. Con to hay nhỏ là tùy mỗi người thôi, ai phần lan ra rộng thì sẽ to hơn. Theo mình thì chưa cần di khám ngay đâu, sinh xong bạn sẽ biết ngay mình bị tuyến vú phụ hay chỉ do thay đổi khi có thai thôi mà. Chỉ cần để ý là khi ngực đau thì nách cũng đau, ấn nhẹ vào mới đau, còn ko thì thôi, trong nách có những cục nhỏ và ko di động. Chúc bạn vui khỏe và ko có vấn đề gì với cái nách. Chỉ mấy một vài ngày nữa mình sinh rồi, chắc sẽ ít vào dd đc, chúc cả nhà may mắn và cả mình nữa...đây là lần đầu mình vượt cạn mà

Khổ sở vì nhũ hoa bất thường

Đi khám vì đau ngực, nghi có u, chị Cúc (quận 10, TP HCM) mới biết mình có rất nhiều tuyến vú. Còn chị Thanh, quê ở một tỉnh miền Tây, ngược lại, chỉ có một bên vú kể từ khi sinh ra.

Chị Cúc, 37 tuổi, thường cảm thấy có những khối u gần tuyến vú, gây căng đau vào kỳ kinh. Lo bị ung thư vú nên chị đến khám tại Bệnh viện Ung bướu TP HCM. Tại đây, sau khi chẩn đoán bằng siêu âm, bác sĩ cho biết ngoài tuyến vú bình thường, bệnh nhân này còn có thêm những tuyến vú phụ. Chính chúng đã căng đau vào kỳ hành kinh do sự xáo trộn nội tiết tố vào mỗi chu kỳ.

Bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng, Giám đốc Bệnh viện Ung bướu TP HCM, giải thích, vào tuần thứ 6 của thai kỳ, mô tuyến vú bắt đầu phát triển theo đường sữa từ nách đến vùng bẹn. Ở đa số trường hợp, đường sữa này bị thoái hóa vào tuần thứ 9 và chỉ còn lại tuyến vú ở bên ngực. Tuy nhiên, một số trường hợp không mất đi đường sữa mà giữ nó suốt đời nên có những tuyến vú phụ, hay tuyến vú lạc chỗ.

Tuyến vú phụ lành tính, không gây nguy hiểm, không tăng nguy cơ ung thư vú và có khi biểu hiện như một nốt ruồi. Nhưng cũng có trường hợp tuyến vú phụ có đầy đủ bộ phận như tuyến vú, núm vú, quầng vú, gây mất thẩm mỹ. Tùy từng trường hợp, bệnh nhân có thể giữ lại hoặc yêu cầu bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú phụ.

Bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng cho biết, bên cạnh chứng nhiều tuyến vú, không ít rối loạn khác ở bộ phận nhạy cảm này cũng đã làm khổ phụ nữ, chẳng hạn như khuyết tuyến vú, tuyến vú phì đại...

Hương, một cô gái quê ở miền Trung, đến Bệnh viện Ung bướu TP HCM khám vì chỉ có một bên vú. Qua thăm khám, bác sĩ thấy một bên ngực cô phát triển bình thường, một bên không có vú, nhìn kỹ thấy một vết sẹo nhỏ ở đầu vú. Hỏi kỹ nguyên nhân, bệnh viện mới biết một bên mầm vú đã bị cắt bỏ vì bác sĩ không phân biệt được khối u và sự phát triển tuyến vú ở bé gái.

Theo bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng, bé gái từ 7 đến 9 tuổi thường có một bên ngực phồng lên, hơi đau làm các bà mẹ lo sợ vì nghĩ rằng ở tuổi này, bé gái chưa dậy thì. Đây là hiện tượng xáo trộn nội tiết, chỉ gây ảnh hưởng một bên ngực chứ không phải dậy thì sớm, sau vài tháng sẽ hết. Vì vậy, các bà mẹ tuyệt đối không nên đắp dán thuốc làm viêm nhiễm vùng ngực gây sẹo xấu, hoặc làm tổn thương chồi vú.

Đối với bệnh nhân bị cắt oan một bên ngực nói trên, do lúc nhỏ ngực phát triển không đều, một bên ngực cộm hơn nên gia đình tưởng là khối u và thầy thuốc vô tình đã lấy đi chồi vú. Hiện cô gái này đã được các bác sĩ tạo hình tuyến vú bằng vạt mô sau lưng và đã lập gia đình. Cô chỉ có thể cho con bú ở một bên ngực còn lại.

Có những trường hợp bị khuyết một bên ngực do bẩm sinh do mắc hội chứng Poland, đó là chị Thanh, 40 tuổi, quê ở một tỉnh miền Tây Nam bộ. Đây là trường hợp bất thường trong phát triển tuyến vú, có thể gây khuyết một hoặc cả hai bên vú. Hiện nay, với kỹ thuật tạo hình tuyến vú, các bác sĩ có thể giúp những bệnh nhân này có bộ ngực cân đối với hình dáng bình thường.

Bệnh viện Ung bướu TP HCM cũng từng phẫu thuật cho một bệnh nhân 15 tuổi có tuyến vú phì đại với trọng lượng khoảng 15 kg. Đây là hội chứng phì đại tuyến vú do có sự xáo trộn bất thường về nội tiết tố. Đối với những trường hợp này, quyết định mổ trong tuổi dậy thì hay chờ hết tuổi dậy thì là tùy thuộc vào bệnh nhân và gia đình. Ở một số trường hợp khác, bệnh nhân bị phì đại tuyến vú sau khi sinh con cũng do nội tiết tố bị xáo trộn gây kích thích mô tuyến vú phát triển.

Nam giới cũng rối loạn tuyến vú

Bác sĩ Phạm Hùng Cường, Phó khoa Ngoại 2 Bệnh viện Ung bướu TP HCM, cho biết không chỉ bé gái mà ở bé trai cũng xảy ra những biến đổi bất thường tuyến vú trong giai đoạn dậy thì.

Nội tiết tố nam được tiết ra từ tinh hoàn và tuyến thượng thận, khi nó tăng hay giảm đều gây ra những rối loạn cho cơ thể. Nữ hóa tuyến vú thường do rối loạn nội tiết ở nam giới, dẫn đến chứng ngực to xảy ra ở người trẻ. Nữ hóa tuyến vú cũng thường làm các bé trai bối rối và tưởng mình mắc bệnh hoặc xem đó như một sự kỳ quái.

Tuy nhiên, chỉ sau 6 tháng hoặc một năm, khi nội tiết ổn định, tuyến vú tự nhiên sẽ xẹp lại. Nếu không, có thể đến thày thuốc để được điều trị bằng thuốc chống nội tiết hoặc phẫu thuật để lấy mô tuyến vú thừa.

Cấu tạo giải phẫu vú như thế nào?
Tuyến vú của giới nữ trưởng thành nằm ở mặt nông của cơ ngực lớn. Sau khi phát triển hoàn thiện, nhô ra trước, lộ dạng nửa quả cầu tròn, phía trên từ xương sườn thứ hai, phía dưới giáp với xương sườn thứ sáu, phía ngoài đến bên ngực nách, phía trong gần đến ranh giới xương ức. Thời kỳ mang thai cho con bú, tuyến vú phát triển đầy đủ, tăng lớn, có thể có lớp mỏng tổ chức tuyến vú bên dưới xương đòn, kéo thẳng đến ven ranh giới khối cơ lưng. Vị trí đầu vú ở ngay giữa tuyến vú, vòng ngoài có vùng quầng vú. Toàn bộ tuyến vú có vòng tròn bọc mỡ phong phú ngay dưới da, dính liền với tổ chức mỡ có hai mô gân nông và sâu giống như tấm lưới bao bọc, tổ chức sợi này ở giữa thuỳ tuyến vú hình thành bó sợi vuông góc với nhau, có tác dụng nâng đỡ nhất định, khiến buồng vú lộ ra dạng nửa quả cầu, và giữ cho vú ở trên vị trí thích hợp, từ đó mà hình thành vẻ đẹp giới tính của nữ giới.
Mỗi buồng vú có từ 15 - 20 thuỳ hợp thành, mỗi thuỳ lại chia thành nhiều thùy nhỏ, mỗi thuỳ nhỏ lại có rất nhiều nang tuyến, nang tuyến nối liền với ống tuyến nhỏ, thông qua ống tuyến nhỏ, trung bình và lớn hợp thành ống tuyến, cuối cùng mở ra miệng ở đầu vú.
Tuyến vú có rất nhiều ống bạch huyết, đường ra ống bạch huyết của tuyến vú gồm có:
(1) Đường hốc nách: Có khoảng 75% bạch huyết tuyến vú dẫn lưu qua hốc nách, sau khi ung thư tuyến vú xâm nhập vào ống bạch huyết tuyến vú, tế bào ung thư men theo đường này di chuyển đến hạch nách.
(2) Đường sữa trong: 25% bạch huyết tuyến vú dẫn lưu qua hạch xung quanh mạch máu trong buồng vú ở xương ức, đặc biệt là bạch huyết ở vùng hai bên trong và giữa tuyến vú.
Vì thế , tế bào ung thư ở vị trí này dễ di chuyển đến hạch trong tuyến vú. Đôi khi ống bạch huyết ở phần sâu buồng vú men theo cơ thẳng của bụng dẫn đến gan hoặc qua lưới bạch huyết ở lớp da buồng vú sang buồng vú đối diện, hốc nách, thậm chí đến hạch ở rãnh bụng đùi (háng).
Dựa vào vị trí, có thể chia hạch nách thành nhóm hạch dưới nách, ổ vùng bên dưới ranh giới ngoài cơ ngực bé; ở giữa ngực lớn và cơ ngực bé là nhóm hạch giữa nách; ở ranh giới trên cơ nhỏ ngực trở lên là nhóm hạch trên nách, khối u tuyến vú di chuyển trước tiên đến hốc nách hoặc hạch trong tuyến vú. Vì thế, y học gọi chúng là "hạch vị trí thứ nhất". Nhóm hạch này sinh trưởng ở trên tế bào ung thư của tuyến vú đến "chiếc xe buyết" bạch huyết ở hốc nách men theo ống bạch huyết đến nhóm hạch thứ nhất. Sau khi qua nhóm hạch thứ nhất, có thể dừng lại một thời gian rồi lại di chuyển đến nhóm hạch thứ hai, như nhóm hạch trên xương dòn (thượng đòn), cuối cùng lan tràn đến vị trí xa hơn nữa. Vì thế, hiểu được giải phẫu tuyến vú để chẩn đoán và điều trị khối u tuyến vú là điều rất quan trọng.


Vì sao trong cơ thể con người sẽ phát triển nhiều buồng vú?


Trong quá trình phát triển, phôi thai của con người sẽ hình thành một tuyến vú, đa số hình thành đôi tuyến vú. Nhưng trong quá trình phát triển, ở thai nhi trước khi sinh, bên dưới ngực lưu lại một đôi tuyến vú, còn đầu vú và tuyến vú khác đều biến mất. Nếu sau khi thai nhi được sinh ra, cùng lúc tuyến vú phát triển có thể lưu lại tàn dư tuyến vú ở vị trí nào đó, thì khi đó sẽ tạo ra tuyến vú phát triển khác thường. Sự phát triển khác thường của tuyến vú thường gặp có thể là:
(1) Chứng đa đầu vú: Tức ngoài đôi tuyến sữa bình thường, ở vị trí khác, phần nhiều ở phía trên ngoài tuyến vú bình thường, gầnn vùng nách hoặc bên dưới tuyến vú bình thường đa sinh trưởng đôi đâu vú.
(2) Chứng tuyến vú phụ hoặc đa tuyến vú: Ngoài tuyến vú bình thường, ở vị trí khác của tuyến vú phôi thai lưu lại tổ chức tuyến vú, thường thấy ở vị trí hốc nách, có thể một bên hoặc hai bên, thường không tồn tại đầu vú, cho nên khó phát hiện. Nhưng tổ chức tuyến vú phụ và tuyến vú bình thường giống nhau, đều bị ảnh hưởng của hormon mà phát sinh những thay đổi có tính chu kỳ, người bệnh sẽ có cảm giác bị sưng đau khó chịu. Khi người bệnh mang thai, tuyến vú phụ cũng lớn lên rõ. Sau khi người bệnh mãn kinh, tuyến vú phụ cũng có thể teo, thay thế bằng mô mỡ, hình thành khối u dày lên. Đương nhiên tuyến vú phụ cũng do tổ chức tuyến vú hợp thành, vì vậy cũng có thể phát sinh ung thư tuyến vú, nhưng tình trạng này rất hiếm gặp.

Người có nhiều vú, vì sao?

Những trường hợp vú phụ đã được nói đến từ thời La Mã trong các huyền thoại. Nữ thần Artemis có tầng tầng lớp lớp vú và nhiều nữ thần khác thời cổ đại được mô tả có rất nhiều hàng vú. Hoàng hậu, vợ vua Henry VIII có vú thứ 3. Nhiều người có niềm tin rằng nam giới có vú phụ chứng tỏ có nam tính và có quyền lực của thánh thần. Y văn ít mô tả về các kiểu vú phụ có thể do ý nghĩa về mặt lâm sàng không lớn nhưng hai thập kỷ gần đây chủ đề vú phụ được nói đến nhiều vì sự tranh cãi không ngã ngũ về mối nghi ngờ có phối hợp với những dị tật và bệnh tật hay không.

Vú phụ còn có tên gọi đa nhũ là một dị tật bẩm sinh nhỏ và thường gặp, gồm có núm vú và/hoặc mô có liên quan, hay có ở trên ngực dọc theo đường vú phôi thai. Vú phụ lạc chỗ khi gặp ở ngoài đường vú phôi thai – gọi như thế vì có tiềm năng phát triển thành mô vú ở nhiều động vật. Ở người đường vú phôi thai đi từ một điểm ngoài hố nách trên cánh tay đi xuống ngực, bụng, bẹn và thường kết thúc ở mặt trong đùi mặc dù nhiều trường hợp có cả trên bàn chân. Vú phụ có thể có đầy đủ mô vú và các ống dẫn sữa, tiết sữa (trường hợp này gọi là polymastia) hoặc chỉ có một phần mô vú.

Từ năm 1915, Kastia đã có bảng phân loại như sau:

- Vú phụ đầy đủ (núm vú, quầng vú và mô tuyến, gọi là polymastia).

- Núm vú và mô tuyến (không có quầng vú).

- Quầng vú và mô tuyến (không có núm vú).

- Chỉ có mô tuyến lạc chỗ.

- Núm vú, quầng vú và mô vú giả (mô mỡ thay thế mô tuyến).

- Chỉ có quầng vú.

- Chỉ có đám lông.

Vú phụ hay phối hợp với những bệnh gì?

Rất nhiều bệnh thuộc các hệ thống khác nhau (thần kinh trung ương, tiêu hóa, xương, tai, mũi, họng, tim) và một số hội chứng như Turner, thiếu máu Fanconi và nhiều bệnh về máu khác... Có tác giả (Meshes, 1979) cho rằng vú phụ thường hay đi kèm với bất thường ở đường tiết niệu (thận) với tỷ lệ khoảng 23-27% như nhiễm khuẩn, dị tật hay ung thư nhưng chủ yếu do những bệnh gây nghẽn tắc.

Các dạng lâm sàng

Thông thường, vú phụ khó nhận biết hoặc không có triệu chứng gì. Đôi khi chỉ nhận thấy có vú phụ khi cơ thể có những thay đổi về hormon như ở tuổi vị thành niên, khi hành kinh hay khi có thai mới thấy tăng sắc tố, phồng to lên, cương đau hoặc thậm chí tiết sữa. Sau khi đẻ, có thể không nhận thấy có vú phụ vì chỉ là một nốt sắc tố nhỏ hay hơi lõm. 75% vú phụ chỉ bằng 1/3 núm vú bình thường nghĩa là đường kính không lớn hơn 0,2-0,3cm; 25% còn lại to bằng nửa núm vú bình thường; rất hiếm khi to bằng núm vú bình thường. Rất dễ lầm với các tổn thương khác. Hầu hết các trường hợp vú phụ chỉ có 1, khi có 2 hoặc nhiều hơn (có khi tới 8 vú phụ) thì phân bố ở cả 2 bên hoặc chỉ ở 1 bên, có thể đối xứng hay không. Các vú phụ thường thấy dưới núm vú bình thường, chỉ có khoảng 13% ở trên nhưng dọc theo đường vú. Khoảng 5% vú phụ bị lạc chỗ nghĩa là thấy ngoài đường vú như lưng, vai, 2 chi, cổ, âm hộ và cả mặt. Nhiều trường hợp vú phụ có tính di truyền gia đình, từ cha mẹ đến con cái; có trường hợp di truyền 4 thế hệ liên tiếp. Gen trội với biểu hiện không đầy đủ là hình thái di truyền thường được chấp nhận.

Thái độ xử trí với vú phụ

Nếu vú phụ phồng to, gây khó chịu, vướng víu thì có thể cắt bỏ. Cắt bỏ vú phụ có đầy đủ mô vú (polymastia) và lạc chỗ có thể cần cân nhắc và phức tạp hơn. Khi có vú phụ đơn độc và không thường xuyên xảy ra trong gia đình thì không nhất thiết phải kiểm tra toàn diện xem có các dị tật khác không, trừ phi kèm theo một dị tật nhỏ, một vú phụ nổi rõ và lạc chỗ hay đã có vú phụ lưu hành trong gia đình, họ hàng. Trong những trường hợp này, kiểm tra bằng siêu âm và làm các thăm dò về thận được chỉ định vì bệnh lý thận và đường tiết niệu có thể diễn biến thầm lặng.

Báo cáo y học đầu tiên về vú phụ đã có từ 1878 với tần suất do Leichtenstern đưa ra là 1 cho 500 (0,2%). Tần suất vú phụ khác nhau theo từng khảo sát, ở dân số Hungary là 0,22% (Meshes, 1979); ở trẻ sơ sinh Mỹ da đen là 1,63% (Rahbar, 1982); sơ sinh Israel là 2,5% (Mimouni, 1983); Đức là 5,6% (Schmid, 1998)... Những sự khác biệt về tần suất có thể do nhiều yếu tố: vùng địa lý, nhóm chủng tộc, phương pháp nghiên cứu, kể cả phương pháp khám phát hiện. Tỷ lệ vú phụ ở nam và nữ khác nhau theo nhiều nghiên cứu nhưng hầu hết nhận thấy ở nam nhiều hơn nữ, với tỷ lệ 1,7/1.

BS. Đào Xuân Dũng

(Theo SKDS )

Vú nằm lạc nhiều chỗ trên cơ thể

Một số người không chỉ có hai vú như bình thường mà có thêm một hay nhiều vú nữa. Chúng có thể mọc ở ngực hay bất cứ nơi nào khác như lưng, vai, chân tay, thậm chí cả chỗ kín.

Theo các nhà chuyên môn, đó là những vú phụ, một dị tật bẩm sinh nhỏ, gặp ở cả nam và nữ. Chúng có thể chỉ bao gồm núm vú, hoặc có đầy đủ mô vú và các ống dẫn sữa.

Báo cáo y học đầu tiên về hiện tượng này đã có từ thế kỷ 19, với tần suất do nhà nghiên cứu Leichtenstern đưa ra là 0,2%, tức cứ 500 người thì một người có vú phụ. Các khảo sát sau đó cho kết quả chênh lệch nhau khá xa, chẳng hạn khảo sát ở Hungary năm 1979 cho kết quả 0,22%, ở trẻ sơ sinh Mỹ da đen năm 1982 cao gấp 7 lần, tức 1,63%, ở Israel cùng thời gian đó là là 2.5%.

Tại Đức, khảo sát năm 1998 cho thấy tỷ lệ người có vú phụ lên đến 5,6%. Sự khác biệt này có thể do vùng địa lý, nhóm chủng tộc hoặc phương pháp tiến hành nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, kể cả phương pháp khám phát hiện.

Những trường hợp vú phụ được nói đến từ thời La Mã trong các huyền thoại. Nữ thần săn bắn Artemis có tầng tầng lớp lớp vú. Nhiều nữ thần khác thời cổ đại được mô tả có rất nhiều hàng vú. Hoàng hậu của vua Henry 8 có vú thứ ba.

Vú có thể mọc ở… chân

Thông thường, vú phụ khó nhận biết hoặc không có triệu chứng gì. Đôi khi nó được phát hiện do cơ thể có sự thay đổi về hoóc môn như dậy thì, hành kinh, có thai…, khiến vú phụ có màu sẫm hơn, phồng to lên, cương đau hoặc thậm chí tiết sữa. Ở trẻ mới sinh, vú phụ có thể không được nhận biết vì nó chỉ là một nốt sắc tố nhỏ hay hơi lõm.

Trong 75% trường hợp, vú phụ chỉ lớn bằng 1/3 núm vú bình thường, nghĩa là đường kính chỉ 0,2 - 0,3 cm, số còn lại to bằng một nửa, rất hiếm trường hợp to bằng núm vú bình thường.

Hầu hết các trường hợp chỉ có một vú phụ, một số có hai hoặc nhiều hơn, thậm chí đến 8 vú phụ. Chúng phân bố ở cả hai bên hoặc chỉ một bên, có thể đối xứng hoặc không. Các vú phụ thường nằm dưới núm vú bình thường, một số ở phía trên nhưng vẫn nằm dọc theo đường vú. Tuy nhiên, khoảng 5% vú phụ bị lạc chỗ, nghĩa là nằm ngoài đường vú như lưng, vai, tay chân, cổ, âm hộ và cả mặt.

Có thể cắt bỏ

Lý giải về sự xuất hiện vú phụ, các nhà khoa học Saint-Hilari và Darwin thế kỷ 19 cho rằng đó là dấu vết sự tiến hóa của loài người từ động vật, người có vú lạc chỗ ở âm hộ cũng tương tự như cá heo và cá voi có vú ở vị trí đó. Vú lạc chỗ ở lưng, vùng xương bả vai và vai tương tự vị trí vú của một số loài gặm nhấm như hải ly.

Khoảng tuần thứ 4 - 5 của thai kỳ, nếp ngoại bì phát triển từ vùng nách đến mặt trong của đùi để tạo nên đường sữa chạy dài dọc cơ thể. Sau đó, các thành phần tuyến của vú được hình thành ở gần xương sườn thứ 4 và 5, phần ngoại bì còn lại thoái hoá dần. Nếu không có sự thoái hoá, vú phụ sẽ hiện diện.

Trước đây, y văn ít mô tả về vú phụ do cho rằng nó có ít ý nghĩa về mặt lâm sàng. Nhưng hai thập kỷ gần đây, nó được nói đến nhiều do sự tranh cãi không ngã ngũ về việc vú phụ có đi kèm với bệnh tật hay không. Có nhà khoa học cho rằng, 1/ 4 số trường hợp vú phụ đi kèm với bất thường ở đường tiết niệu như nhiễm khuẩn, dị tật hay ung thư.

Nếu vú phụ phồng to, gây khó chịu, vướng víu nên xem xét cắt bỏ. Ca phẫu thuật có thể phức tạp, khi vú phụ có đầy đủ mô tuyến sữa và nằm lạc chỗ. Nếu chỉ có một vú phụ và hiện tượng này không lặp lại trong gia đình. Nếu vú phụ nổi rõ, lạc chỗ, kèm theo một dị tật nhỏ hay gia đình, dòng họ có người khác cũng bị thì nên kiểm tra bằng siêu âm và làm các thăm dò về thận.

BS Đào Xuân Dũng

BẠN BIẾT GÌ VỀ UNG THƯ VÚ ?

BS Nguyễn Ngọc Hiền

- Ung thư vú là gì ?

phụ nữ là 1 tuyến sữa bao gồm nhiều thùy tuyến (lobes) tiết ra sữa, qua các ống dẫn ngoằn ngoèo từ nhỏ đến to dần và cuối cùng đổ ra núm vú. Tất cả nằm trong một tổ chức đệm gồm mỡ và sợi. Tuyến sữa nằm dưới da và ngoài cơ ngực, được nuôi dưỡng bởi hệ thống nhiều mạch máu. Ngoài ra còn có hệ thống bạch mạch dẫn bạch huyết từ vú ra ngoài qua 3 ngã: nách, dưới xương đòn và bên trong ngực (mamaire interne). Khi các tế bào tuyến hoặc tế bào nền các ống dẫn phát triễn quá mức, không kiểm soát được sẽ sinh ra ung thư vú (đó cũng là cách thường thấy trong sự hình thành các ung thư khác).

Khi ung thư còn khu trú bên trong tuyến hoặc ống, gọi là ung thư tại chổ (in situ). Nếu được phát hiện ở giai đoạn này, cơ may chữa khỏi rất cao – có thể đến 100% - nhưng thường rất hiếm khi ung thư được phát hiện trong giai đoạn này. Khi ung thư đã lan ra ngoài, xâm lấn vào tổ chức đệm chung quanh gọi là ung thư xâm lấn. Tế bào ung thư có thể theo các đường bạch mạch (hệ thống mạch bạch huyết) lan ra các nơi xa, vào các hạch bạch huyết vùng (nách, dưới xương đòn ...), chúng cũng có thể theo các mạch máu đi đến các nơi xa như xương, phổi, gan... Tại những nơi đó chúng phát triễn thành những khối ung thư gọi là di căn.

- Các yếu tố nguy cơ.

- Phụ nữ trên 40 tuổi

- Gia đình có người bị ung thư vú (mẹ, chị), đặc biệt là họ bị ung thư vú lúc dưới 45 tuổi.

- Đã bị ung thư vú trước đó (đã được điều trị)

- Đã bị loạn sản tuyến vú

- Có các vấn đề về kích thích tố nữ (hormone) như: có kinh sớm (trước 15 tuổi), tắt kinh trễ (sau 50 tuổi), không có con, có con đầu sau 35 tuổi.

- Chế độ ăn uồng: ăn nhiều thịt đỏ, mỡ động vật, uống rượu

- Béo phì. Ít vận động

- Dấu hiệu và triệu chứng gợi ý.

Trong giai đoạn sớm, có rất ít các dấu hiệu hoặc triệu chứng giúp phát hiện ung thư vú. Khi có các triệu chứng rõ ràng thì ung thư đã qua giai đoạn xâm lấn. Tuy nhiên có thể dựa vào các dấu hiệu và triệu chứng gợi ý để chú ý đến và thực hiện thêm các thăm dò, xét nghiệm cần thiết để phát hiện bệnh:

- Núm vú cứng hoặc thụt vào bên trong vú (chỉ có giá trị ở những người trước đó núm vú bình thường).

- Rỉ máu ở đầu núm vú

- Ngứa hoặc loét ở đầu núm vú

- Thay đổi ở da trên vú (sần sùi, mản cứng, da cam, đổi màu...)

- Làm sao phát hiện sớm ung thư vú?

Tại nhiều nước có nền kinh tế phát triển chụp nhủ ảnh (mamographie) là phương tiện được khuyến cáo để phát hiện sớm ung thư vú. Ở Mỹ, nhiều nước Âu châu. .. có chương trình chụp nhủ ảnh cho phụ nữ trên 40 tuổi đã giúp giảm tỷ lệ tử vong do ung thư vú 50%. Gần đây có khuyến cáo đối với các nước đang phát triển nên sử dụng siêu âm như là phương tiện tầm soát u vú trong cộng đồng. Những trường hợp phát hiện có u hoặc có nghi ngờ (có yếu tố nguy cơ) sẽ chuyển chụp nhủ ảnh, vì siêu âm rẽ tiền, không độc hại, có thể thực hiện đại trà trong cộng đồng và có thể phát hiện các khối u vú nhạy hơn nhủ ảnh. Tuy nhiên siêu âm phân biệt u lành với ung thư không chính xác bằng nhủ ảnh, nhất là đối với các u nhỏ.

Tự khám vú đúng cách là phương tiện rất tốt để phát hiện sớm ung thư vú. Theo GS Nguyễn Chấn Hùng, đối với Việt Nam, đây là phương tiện tốt nhất vì không tốn kém, ai cũng có thể làm được tại nhà. Tất cả phụ nữ trên 20 tuổi nên tự khám vú mỗi tháng 1 lần, tốt nhất là 1 tuần sau ngày sạch kinh, theo các bước sau đây:

1- Đứng trước gương, đưa cánh tay cao trên đầu, qun sát kỹ vú và đầu vú xem có thay đổi gì không (so với những lần trước)

2- Nằm ngữa, dùng đầu các ngón tay khám vú từ dưới lên trên và từ trong ra ngoài, rôid đến hố nách xem có phát hiện ra khối cứng nào trong vú không, xem núm vú có cứng hay thụt vào không.

3- Bóp nhẹ núm vú xem có cứng, đau hay chảy dịch (hoặc máu) không?

Nếu thấy có gì bất thường nên đến bác sĩ chuyên khoa để được hướng dẫn kỹ hơn.

1- Đứng thẳng trước gương, cánh tay đưa cao quá đầu. Quan sát, phát hiện những thay đổi ở vú, núm vú.

2- Nằm ngữa, khám vú bằng các đầu ngón tay, từ dưới lên và từ trong ra. Khám hố nách.

3- Bóp nhẹ núm vú xem có khối cứng ? có tiết dịch ?

Nguồn: John Hopkin Hospital


- Chẩn đoán ung thư vú.

Để phát hiện ung thư vú bác sĩ sẽ dựa vào:

- Khám lâm sàng: BS sẽ khám vú có hệ thống để tìm ra các thay đổi bẩt thường trong vú như 1 hay nhiều khối cứng, mãn tổ chức xơ, nang, tình trạng núm vú, có dịch ở núm vú, hạch ở nách, ở vùng trên đòn ...

- Siêu âm vú: Có thể phát hiện rất sớm các thay đổi cấu trúc bên trong vú nhu viêm xơ tuyến vú, nang, u, hạch ở nách...và tính chất các cấu trúc đó.

- Nhủ ảnh: Cho thấy các điểm vôi hóa dạng đặc biệt trên tuyến vú, các dấu hiệu đặc hiệu của ung thư vú.

Để khẳn định ung thư vú, BS cần làm sinh thiết khối u để xét nghiệm giải phẫu bệnh (nhuộm, quan sát dưới kính hiển vi). Có thể:

- Sinh thiết với kim nhỏ (FNA): phương pháp này nhẹ nhàng, ít đau nhưng kết quả ít chắc chắn.

- Chọc hút với kim sinh thiết (tru-cut): dùng kim có móc, chọc lấy ra 1 mãnh nhỏ khối u, kết quả tốt hơn.

- Mổ lấy trọn khối u (sinh thiết trọn) để làm xét nghiệm giải phẫu bệnh: phương pháp này cho biết kết quả chắc chắn hơn.

Bác sĩ sẽ xác định có phải là ung thư hay không, nếu là ung thư thì sẽ phân độ ung thư, theo đó sẽ có cách điều trị phù hợp. Mỗi nước sử dụng bảng phân độ khác nhau. Ở Việt Nam thường dùng bảng phân độ TNM:

- Độ 0 : Ung thư tại chổ (cancer in situ)

- Độ I : T1 (u <>

- Độ II: T2 (u 2-5cm), N1 (có hạch di căn), M0 (không có di căn xa)

- Độ III: T3 (u > 5cm-xâm lấn ra da), N1,2, Mx (có hay không có di căn xa)

- Độ IV: T3-T4, N2, M1... (có di căn xa)

và bảng phân độ (Grade): G1, G2, G3.

Ngoài ra phải xác định thụ thể oestrogene (ER) dương (+) hay âm (-)

Điều trị ung thư vú như thế nào?

Cũng như các ung thư khác, ung thư vú được phát hiện càng sớm tỷ lệ điều trị khỏi càng cao. Người ta ước tính nếu ung thư vú được phát hiện ở độ 0, tỷ lệ được chữa khỏi là 95%, độ I: 75%, độ II: 60%, độ III: 40%, độ IV tỷ lệ này chỉ còn 20%.

Điều trị ung thư vú có 2 phần:

1- Điều trị tại chổ - vùng (locoregional): Tùy theo mức độ ung thư người ta cắt bỏ bướu kèm theo tổ chức chung quanh (nếu ở độ 0, I) hoặc bắt bỏ toàn bộ vú (mastectomie) kèm theo cơ ngực, nạo hạch nách. (nếu ở độ II trở lên).

2- Điều trị hệ thống (toàn thân): Tế bào ung thư có thể theo dòng bạch huyết hoặc máu di căn rất xa nên sau phẫu thuật phải phối hợp với hóa trị và xạ trị (gọi là điều trị đa mô thức). Cuối cùng nên dùng thuốc kháng oestrogene (tamoxifen và các thuốc tương tự) lâu dài (ít nhất 5 năm) đề phòng bệnh tái phát. Tamoxifen cũng còn được dùng cho những người có nguy cơ (như đã nêu ở trên) để phòng ngừa ung thư vú. Có một số nghiên cứu cho thấy đối với các ung thư vú từ độ 0 – II, có ER (+), sau khi mổ chỉ cần dùng Tamoxifen 20mg/ngày trong 5 năm, không hóa trị, không xạ trị vì hóa trị có nhiều tác dụng phụ như làm rụng tóc, xạm da và suy kiệt cơ thể. Tuy nhiên chúng tôi thấy nên điều trị đa mô thức an toàn cho bệnh nhân hơn, ngoại trừ trường hợp bệnh nhân dị ứng với các thuốc hóa trị.

Sau điều trị cần có chương trình tập luyện cho người bệnh (tập vận động tay bên có vú bị cắt bỏ, xoa bóp thường xuyên cánh tay để tránh bị tắt các mạch bạch huyết...), tập thể dục và thay đổi chế độ ăn uống để giảm cân (nếu người bệnh dư cân). Ngoài ra người bệnh nên tham gia các hội người bị ung thư vú để cùng sinh hoạt, trao đổi kinh nghiệm.

- Phòng ngừa ung thư vú:

Giảm thiểu các yếu tố nguy cơ: có 1 số nguy cơ có thể giảm được như: giảm ăn các loại thịt đỏ, mỡ động vật, ăn nhiều rau, quả, các chế phẩm đậu nành, giảm cân, tránh béo phì, bỏ uống rượu, thường xuyên tập thể dục, năng hoạt động tránh sống thụ động. Đối với các phụ nữ có nguy cơ không thay đổi được như có kinh sớm, tắt kinh trễ, gia đình có người bị ung thư vú, bản tân có loạn sản tuyến vú, nên uống tamoxifen 20mg ngày để phòng tránh ung thư vú.

Các chương trình tầm soát ung thư vú được áp dụng tại nhiều nước đã giúp phát hiện sớm ung thư vú nhờ đó đã hạ thấp tỷ lệ tử vong do ung thư vú một cách đáng kể. Hiệp hội ung thư châu Âu đã đưa ra hướng dẫn tầm soát ung thư được cho là đơn giản và có hiệu quả:

- Phụ nữ dưới 40 tuổi:

- Tự khám vú 1 lần / tháng

- Khám định kỳ (bởi BS chuyên khoa) 1 lần / 3 năm

- Chụp nhủ ảnh (làm chuẩn để so sánh sau này)

- Phụ nữ 40 tuổi trở lên:

- Tự khám vú 1 lần / tháng

- Khám định kỳ (bởi BS chuyên khoa) 1 lần / mỗi năm

- Chụp nhủ ảnh mỗi năm 1 lần

Nếu thực hiện được các hướng dẫn trên chúng tôi tin chắc rằng ung thư vú không còn là nỗi ám ảnh đáng sợ của phụ nữ.

ĐẠI CƯƠNG VỀ UNG THƯ VÚ

Tác giả: GS-TS: Nguyễn Bá Đức, TS: Trần Văn Thuấn

Sự hình thành phát triển và sinh lý của tuyến tuyến vú

Vú hay tuyến sữa là cơ quan rất quan trọng đảm bảo sự sống cho trẻ mới sinh cũng như trong việc duy trì giống nòi. Vì vậy, những hiểu biết về hình thái và sinh lý học của vú cùng những mối liên quan với nhiều tuyến nội tiết khác là cực kỳ cần thiết để nghiên cứu về sinh lý bệnh cũng như giúp ích rất nhiều trong điều trị các bệnh lý lành tính, tiền ác tính hoặc ác tính của tuyến vú.

Thời kì phôi thai

- Ở tuần thứ 5 của thai nghén, lá phôi sữa ngoại bì nguyên thuỷ hay "dải sữa" (galactic bùng) phát triển từ nách tới háng của thân phôi. ở vùng ngực, dải này phát triển tạo thành 1 mào tuyến vú, trong khi phần còn lại của dải sữa sẽ thoái triển. ở khoảng 2-6% các trường hợp có sự thoái triển hoặc phát tán không hoàn toàn của dải sữa nguyên thuỷ dẫn tới sự hình thành vú phụ.

- Đến tuần thứ 7-8 của thời kỳ thai nghén, xảy ra hiện tượng này tuyến vú (giai đoạn đồi sữa - milk hill stage), tiếp sau là sự lõm vào trong mô giữa thành ngực (giai đoạn đun và phát triển 3 chiều (giai đoạn hình cầu). Mô giữa thành ngực sẽ tiếp tục xâm lấn làm dẹt mào tuyến vú (giai đoạn hình nón) ở tuần 10-14 của thai nghén. Giữa luẩn 12-16 của thai nghén, các tế bào mô -giữa sẽ biệt hoá thành cơ trơn của núm vú và quang vú. Biểu mô nụ phát triển (giai đoạn nụ) rồi phân nhánh thành 15-25 dải biểu mô (giai đoạn phân nhánh) ở tuần 16 của thai nghén; đây là các dải đại diện cho các nang tiết sau này. Tiếp đó, vú thứ 2 sẽ phát triển, cùng với sự biệt hoá của các nang lông, tuyến bã, tuyến mồ hôi, nhưng chỉ có tuyến mồ hôi là phát triển hoàn chỉnh ở thời điểm này. Về mặt nguồn gốc, nhu mô vú được cho là phát triển từ mô tuyến mồ hôi. Ngoài ra, các tuyến bán huỷ đặc biệt phát triển tạo thành các tuyến Montgomery xung quanh núm vú. Quá trình phát triển này không chịu ảnh hưởng của các hormon.

- Trong thời gian 3 tháng cuối, các hormon sinh dục của nhau thai xâm nhập vào hệ tuần hoàn của thai và tạo ra các kênh của biểu mô nhánh. Quá trình này tiếp tục từ tuần thứ 20 tới tuần thứ 30 của thai nghén. Cùng thời gian đó, có sự hình thành 15-25 ống vú, cùng sự kết dính của ống và tuyến bã ở gần biểu bì. Quá trình biệt hoá nhu mô xảy ra từ tuần 32 tới 40 với sự phát triển cấu trúc các nang-tiểu thùy có chứa sữa non (giai đoạn túi cùng). Tại thời điểm này, khối lượng tuyến vú tăng gấp 4 lần, quầng và núm vú phát triển và trở nên sẫm màu. ở trẻ sơ sinh, tuyến vú bị kích thích sẽ tiết ra sữa non (đôi khi còn gọi là sữa witch), nó có thể xuất hiện ở núm vú đa số các trẻ sơ sinh dù thuộc giới nào sau đẻ 4-7 ngày. Còn ở những trẻ mới đẻ, tiết sữa non giảm dần trong giai đoạn 3-4 tuần và teo vú .do hết các hormon nhau thai. Trong thời kỳ niên thiếu, các túi cùng sẽ tiếp tục kênh hoá và phát triển thành các cấu trúc ống, to lên và chia nhánh.

Sự phát triển bất thường của tuyến vú

Các bất thường bẩm sinh

Bất thường phổ biến nhất là có thêm một vú phụ. Nguyên nhân xuất hiện của vú phụ có thể do sai sót của quá trình nhiễm sắc nevi, và có thể xảy ra ở bất cứ điểm nào dọc lá phôi sữa từ nách tới háng. Rất hiếm có thể gặp tuyến vú phụ phát triển. Trong thời kỳ có thai và cho con bú, vú phụ này cũng có thể to lên.

Thiểu sản là tình trạng tuyến vú kém phát triển, có trường hợp không có tuyến vú bẩm sinh. Có rất nhiều các bất thường của vú và được phân loại như sau :

· Thiểu sản vú 1 bên, bên đối diện bình thường.

· Thiểu sản vú 2 bên.

· Quá sản vú 1 bên, bên đối diện bình thường.

· Quá sản vú 2 bên.

· Thiểu sản vú 1 bên, bên đối diện quá sản.

· Thiểu sản 1 bên vú, lồng ngực và các cơ ngực (hội chứng Poland).

Đa số các bất thường này đều không có gì nghiêm trọng.

Các bất thường mắc phải

Bất thường phổ biến nhất là tật không có vú (amazia). Chỉ định sinh thiết vú không đúng khi vú đang phát triển trước dậy thì có thể cắt mất phần nhiều quầng vú và hậu quả là gây biến dạng vú trong thời kỳ dậy thì. Điều trị tia xạ cho các trẻ gái chưa dậy thì do bị u máu ở vú hoặc có bệnh ở lồng ngực cũng có thể gây vú không phát triển. Các nguyên nhân khác như bỏng nặng gây co kéo, nếu xảy ra trong khi tuyến vú đang phát triển cũng có thể dẫn đến hậu quả là vú bị biến dạng.

Sự phát tbiển bình thường thường của vú trong thời kỳ dậy thì

Quá trình dậy thì ở trẻ gái bắt đầu ở tuổi 10-12. Các tế bào ưa kiềm ở thuỳ trước tuyến yên giải phóng ra FSH và LH. FSH kích thích các nang nguyên thuỷ chín thành các nang Graaf, các nang này sẽ tiết ra estrogen mà chủ yếu là 17 -estradiol. Đây là hormon kích thích sự phát triển của vú và các cơ quan sinh dục. Trong vòng 1 -2 năm đầu sau khi có kinh nguyệt, chức năng trục dưới đồi-yên- thượng thận không cân bằng vì sự chín của các nang nguyên thuỷ không gây được rụng trứng hoặc pha hoàng thể. Do vậy quá trình tổng hợp estrogen ở buồng trứng trội hơn so với tổng hợp progesteron ở hoàng thể. Tác dụng sinh lý của estrogen lên sự phát triển vú là kích thích các ống biểu mô phát triển dài ra. Các ống tận cũng tạo thành các nụ và nó dự báo sự phát triển của thuỳ vú. Đồng thời, các tổ chức mô liên kết quanh ống cũng phát triển, tăng về thể tích và độ đàn hồi, kèm theo là sự gia tăng các mạch máu và mô mỡ. Những thay đổi ban đầu này là nhờ estrogen được tổng hợp tại các nang trứng không rụng trứng. Tiếp đó là có rụng trứng và progesteron được giải phóng từ hoàng thể. Trong các nghiên cứu thực nghiệm, estrogen đơn thuần gây được sự phát triển các ống tuyến còn progesteron đơn thuần thì không. Kết hợp 2 hormon có thể gây được sự phát triển hoàn chỉnh các ống-nang-thuỳ của mô tuyến vú. Sự phát triển tuyến vú ở mỗi người là khác nhau nên không thể phân loại những thay đổi mô học dựa trên cơ sở tuổi. Sự phát triển vú theo tuổi được mô tả dựa trên những thay đổi hình thể ngoài. Tiến triển của vú từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành được chia làm 5 giai đoạn (GĐ), theo Tanner như sau :

GĐ 1 : Núm vú nhô lên nhưng không sờ thấy mô tuyến, quầng vú chưa sẫm màu.

GĐ 2 (Tuổi ll-12) : Xuất hiện mô tuyến ở vùng dưới quầng vú. Núm vú và mô tuyến vú nhô lên ở thành ngực.

GĐ 3 (Tuổi 12-13) : Tăng số mô vú có thể sờ được, vú to lên, tăng về đường kính và quầng vú sẫm màu hơn. Chu vi của vú và núm vú vẫn nằm trên 1 bình diện.

GĐ 4 (Tuổi 13-14) : Quầng vú to lên và sẫm màu hơn. Núm vú và quầng vú tạo thành mô thứ 2 cao hơn vú.

GĐ 5 (Tuổi 14- 16) : Phát triển đường viền cơ trơn hoàn chỉnh.

Thứ Bảy, 14 tháng 2, 2009

MÌ CHÍNH - KẺ THÙ NGỌT NGÀO

I.LỊCH SỬ BỘT NGỌT – MÓN GIA VỊ CHẾT NGƯỜI

Cách đây hàng ngàn năm khi người Nhật bắt đầu dùng rong biển làm thực phẩm, họ phát hiện ra loại rong lá (có tên khoa học Laminaria japonica) còn là một loại gia vị hảo hạng. Vào thời ấy, hoạt chất của loại rong lá làm cho thức ăn có hương vị đậm đà (do acid glutamic) chưa được nhận diện.

Vào năm 1980, nhà bác học Rittenhausen ở Humburg (Đức) đang tìm kiếm để xác định cơ cấu của các protêin động vật, đặc biệt là acid amin kể cả acid glutamic. Họ là các nhà khoa học thuần tuý, cố gắng nhận ra các đặc tính hoá học của các protein khác nhau. Tuy nhiên, công trình của họ trở nên thiết yếu cho Kikunae Ikeda nhận diện được hoạt chất của rong biển làm cho thức ăn thêm có vị và việc sản xuất hoạt chất đó.

Ikeda là một thanh niên Đông Kinh, theo học Viện đại học Đông Kinh và tốt nghiệp khoa hoá vào năm 1889. Sau một thời gian ngắn dạy trung học, ikeda qua Đức tu nghiệp và có quan hệ với WOff trong nghiên cứu hoá học về protein acid glutamic được tổng hợp trong suốt nhiều năm tập sự.

Trở về quê hương, Ikeda làm việc cho khoa hoá của Viện Đại học Hoàng gia Đông Kinh. Vào năm 1908, khi trở nên thành viên thực thụ của giáo sư đoàn, ông bắt đầu nghiên cứu loại rong biển mà vợ ông vẫn dùng để làm cho món xúp thêm ngon,, và chẳng bao lâu ông nhận diện được hai thứ hoạt chất làm cho thức ăn có vị đậm đà đó.

Ông khám phá ra thứ hoạt chất trích từ loại rong biển ngon ngọt kia có những đặc tính của acid glutamic, và hoạt chất đó là monosodium glutamate, một muối của acid glutamic. Phát hiện của ông mang nhãn hiệu trình toà của Anh với Paten số 9440 – nhan đề “sản xuất chất liệu gây vị” ngày 21 tháng 4 năm 1909.

Kikunae Ikeda biết mình đang nắm trong tay bí quyết có nhiều áp dụng thực tiễn. Trong lúc giảng dạy tại Viện đại học Hoàng gia, ông vẫn nộp hồ sơ để có được những patent bảo đảm quyền sáng chế của mình trên các quy trình công nghiệp mang tính thương mại, trước là dùng protein của lúa mì phân rã về sau dùng protein đậu nành.

Vào năm 1909, ông kết hợp với một nhà kinh doanh có khiếu làm ăn tên là Saburosuke Suzuki – nguyên là một dược sĩ - thuyết phục ông này rằng họ sắp phất lớn nhờ cung cấp cho thế giới một chất mới tạo vị. Họ chọn từ “Aji – no – moto” làm tên cho sản phẩm trình toà của mình và về sau nó trở thành tên của công ty có trách nhiệm triển khai sản xuất và phân phối bột ngọt trên toàn thế giới. “Aji” có nghĩa là nguồn gốc, sự khởi phát, hay cơ bản; còn “moto” có nghĩa là vị hay hương vị. Vì vậy Aji – no – moto theo từng từ có nghĩa là “Ngay tại nguồn gốc của hương vị”.

Đến năm 1933 sản xuất bột ngọt tại Nhật Bản đạt đến 4 triệu rưỡi kilogram hàng năm, và bột ngọt trở thành món gia vị quan trọng hàng đầu ở Đông phương. Ngày nay Aji – no – moto cung cấp hơn phân nửa nhu cầu bột ngọt trên toàn thế giới.

Vào thời kỳ trứng nước của ngành sản xuất bột ngọt thế độc quyền Aji–no–moto chỉ bị thách thức có một lần. Trung Hoa bắt đầu sản xuất bột ngọt những năm 1920, đến năm 1930 sản lượng hàng năm là 200.000 kilôgam. Vào giữa những năm 1930, Trung Hoa là mối đe doạ nghiêm trọng trong việc cạnh tranh thị trường bột ngọt với hai loại bột ngọt mang nhãn hiệu Ve-tsin. Thế nhưng khi chiếm đóng các tỉnh ven duyên hải, Nhật đã dẹp các nhà máy không cho làm bột ngọt nữa.

Mặc dù cố gắng rất nhiều từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Aji – no – moto vẫn khó thâm nhập vào Hoa Kỳ. Câu chuyện Aji – no – moto đến Mỹ không gây mấy ảnh hưởng và nhân vật kích cho nó được triển khai bị đi vào lãng quên.

Vào năm 1925, James E. Larrowe và Công ty Larrowe Milling tiếp xúc với Công ty gia vị Suzuki yêu cầu giúp đỡ xử lý “nước thải” trong quy trình làm đường củ cải sao cho có lợi vì nước thải có chứa acid glutamic với hàm lượng đáng kể. Người ta gọi loại này là “nước thải của ông Stephen” theo tên của nhà khoa học đã triển khai quy trình xử lý. Vào năm 1925, Hoa Kỳ hay chính xác hơn Công ty Larrowe Milling thặng dư chất này sau Đệ nhất Thế Chiến.

Lúc ấy Hoa Kỳ bị cạn nguồn potash (của Đức) để làm phân bón và việc rút các muối kali (potassium) từ nước thải trở nên nguồn lợi hấp dẫn. Nhiều nhà máy chế biến củ cải đường chuyển qua nhà máy potash vì giá potash quá hấp dẫn: 400 Mỹ kim một tấn. Nhưng vào năm 1918, khi cuộc chiến chấm dứt, giá potash hạ xuống đến chóng mặt cho nên Công ty Larrowe bị ứ đọng hàng ngàn tấn “nước thải của ông Stephen” chứa trong các bồn lớn ở thành phố Mason City (bang Lowa). Larrowe đã mở rộng việc sản xuất potash hy vọng đáp ứng nhu cầu về potash và giờ đây bị kẹt vốn nặng nề. Ông phải tìm cho ra cách sử dụng loại nước thải này.

Bột ngọt làm bằng nước thải – phát hiện Hoa Kỳ

Bột ngọt hay mì chính, là thứ gia vị phổ biến đến nỗi làm món ăn gì người ta cũng nêm nó cả. Tệ hại hơn nữa, gian thương còn trộn thêm chất độn - kể cả những chất độc hại – hòng trục lợi mặc dù bản thân bột ngọt cũng đủ có hại cho sức khoẻ của chúng ta rồi.

Sử dụng nước thải bằng mọi cách - kể cả dùng nó làm chất chống băng giá cho xe hơi đã gặp thảm bại. Trong khi tuyệt vọng, Larrowe đến Viện nghiên cứu Công nghệ Mellon ở thành phố Píttburg, bang Pennsylvania, và trình bày nỗi khổ của mình. Ấy là vào năm 1923, nước thải đã chờ đợi suốt năm ròng. Vốn lên đến hàng triệu Mỹ kim bị giam, còn nước thải thì dường như là loại nguyên liệu chỉ đợi vứt đi.

Sau khi suýt làm hư chiếc xe mới toanh hiệu Packard của mình, Larrowe muốn Viện nghiên cứu Công nghệ xác định tại sao không thể dùng nước thải làm chất chống đóng băng giá. Tiến sĩ Đonald Tressler, một nhà khoa học trẻ được cấp một học bổng nhằm phân tích và tìm ra cách sử dụng nước thải có hàm lượng lượng acid glutamic cao này. Sau khi hỏi ý kiến của thầy mình là Giáo sư Elmer Mc Collum, một nhà khoa học nổi tiếng về sinh tố tại Viện Đại học John Hopkins, ông khuyên Larrowe nên bỏ việc dùng nước thải để làm chất chống đóng băng giá mà nên tiến hành việc dùng nó để làm bột ngọt.

Larrowe tiếp xúc với Suzuki và Ikeda đề nghị họ nên mua loại nước thải giàu acid glutamic của mình. Năm 1926, Tiến sĩ Ikeda, Suzuki và con trai rời Nhật Bản, vất vả tìm đường qua thành phố Mason (bang Lowa)

Đoàn của Công ty cho rằng họ có thể sản xuất bột ngọt và bán nó ở Phương Đông và Hoa Kỳ qua Công ty Larrowe – Suzuki. Về mặt kinh tài mà nói, vụ hợp tác này là một thảm họa đối với Larrowe, nhưng ông vẫn quyết tâm làm cho được bột ngọt từ loại nước thải của mình.

Tiến sĩ Ikeda qua đời vào năm 1931, năm năm sau Suzuki cũng quy tiên, việc làm ăn giữa Larrowe và Suzuki chấm dứt. Lúc ấy Larrowe đã vào tuổi thất tuần, sức khoẻ kém mà vẫn chưa sử dụng được nước thải của mình cho có lợi dù đã rót vốn rất nhiều vào rồi. Tiến sĩ Albert Marshall là cố tri của Larrowe, vô cùng khâm phục quyết tâm của bạn. Quả vậy, theo Marshall chỉ có dùng lời của Shakespeare mới diễn tả nổi con người của Larrowe: “Những gì ta mưu cầu, ta sẽ đạt được và đó là một cứu cánh”.

Dù có sanh lợi hay không, cuối cùng rồi Larrowe cũng tìm ra cách sử dụng loại nước thải của mình: sản xuất bột ngọt. Công ty của ông, Amino Products, chung cuộc lại về tay Công ty International Mineral and Chemicals (Công ty khoáng và hoá chất quốc tế).

Dù được sản xuất ở Hoa Kỳ, bột ngọt vẫn không được chấp nhận làm gia vị cho thức ăn của người Mỹ. Trớ trêu thay, vào Đệ nhị Thế chiến, binh lính Mỹ quan tâm đến việc Nhật Bản dùng bột ngọt trong khẩu phần ăn của lính Nhật. Sau cuộc chiến, có một hội nghị bàn về việc sử dụng bột ngọt, đặc biệt là để làm những thực phẩm dùng trong cuộc hành quân cũng như cho ngành công nghệ thực phẩm đông lạnh ở vào thời kỳ trứng nước.

Vào năm 1948, cuộc hội thảo đầu tiên về bí ẩn của bột ngọt được tổ chức tại khách sạn Stevens ở Chicago và được Chỉ huy trưởng Cục hậu cần chủ trì. Muốn hiểu ra niềm phấn khởi phát sinh từ cuộc họp này, chúng ta hãy quay vè dĩ vãng. Năm 1948...

Hãy tưởng tượng bạn là một thành viên có tầm cỡ trong nền công nghiệp thực phẩm được mời đến Chicago vào năm 1948 để nghe về điều kỳ diệu của một loại gia vị: một bí quyết làm cho thức ăn của quân đội Nhật bản ngon hơn. Vừa bước vào phòng họp, bạn được Franklin Dove - Trưởng ban thực phẩm và đóng gói thuộc Cục hậu cần, một nhà thông thái – đón tiếp. Rồi lại được Giám đốc Viện hậu cần vồn vã cho biết ông cũng mong đợi sự kiện này mà lòng tràn trề hy vọng. Ông nói: “Tôi rất tò mò về cái chất kỳ lạ này”. Nhìn quanh, bạn nhận ra toàn những khuôn mặt lớn, có vai vế lãnh đạo ngành công nghiệp thực phẩm, chế biến thực phẩm và phân phối trên toàn nước Mỹ.

Cuộc họp này đánh dấu một cuộc cách mạng Hoa Kỳ trong thực phẩm, một sự kiện kéo dài trong tám tiếng đồng hồ có hậu quả liên hệ đến triệu triệu con người qua một thời gian rất dài.

Nhìn khắp đại sảnh, bạn thấy ai nấy đều chăm chú hăng say ghi ghi chép chép trong khi từng diễn giả đưa ra các bài tham luận không tiếc lời ca tụng loại bột ngọt thần diệu này, không khí phấn khởi bao trùm lên phòng họp. Bột ngọt đã được đăng quanh. Nền công nghiệp thực phẩm bột ngọt của Hoa Kỳ cất cánh đi vào hoạt động. Và nếu những phát hiện tuyệt vời nêu trên chưa đủ thì những lời phát biểu của diễn giả cuối cùng chả khác gì một lớp kem ngon lành phủ lên trên chiếc bánh tuyệt hảo.

Tiến sĩ Carl Pfeiffer thuộc trường Y của Viện Đại học Illinois là một bậc thầy nổi tiếng trong ngành Y dã dành thì giờ đến dự buổi họp này và thông báo rằng nay các nhà khoa học đang bắt đầu thử nghiệm để xem bột ngọt có tác dụng trong việc nâng cao chỉ số trí tuệ thông minh của các người có trí tuệ chậm lụt. Thật ra thì những ai tham dự hội nghị chẳng cần được động viên hơn nữa, thế nhưng thông tin mới này chả khác nào thứ động cơ có sức đẩy mãnh liệt.

Còn nền công nghiệp thực phẩm chẳng mảy may nghĩ đến mặt đen tối, xấu xa của loại bột nêm thần diệu này mà hậu quả là gây ra hội chứng bột ngọt.

II. TÁC HẠI CỦA MÌ CHÍNH ĐỐI VỚI CƠ THỂ.

1.Lời bạt cho một cuốn sách

Tiến sĩ Y khoa Arthur D.Colman là Giáo sư lâm sàng khoa Tâm thần thuộc Trung tâm Y khoa của Viện Đại học Califonia đã viết lời bạt được trích dịch dưới đây cho một cuốn sách nói về hội chứng bột ngọt đồng thời giúp bạn tự chủ cuộc sống của mình.

Bột ngọt (còn được gọi là mì chính) có nguy hiểm cho sức khoẻ bạn không? Và nếu cơ thể của bạn bị mẫn cảm với bột ngọt, không chịu nổi bột ngọt, bạn cần phải làm những gì để loại bỏ bột ngọt, loại bỏ những thực phẩm có dùng bột ngọt ra khỏi những món ăn, thức uống của mình? Cuốn sách này sẽ trình bày đầy đủ những dữ kiện về lịch sử, khoa học, lâm sàng, và dinh dưỡng để cho bạn tự quyết định trước những mối nguy hiểm tiềm tàng của bột ngọt đối với bạn và con cái của mình.

Đây là cuốn sách đầu tiên thuộc loại này được xuất bản vừa nhằm vào độc giả mà nghề nghiệp có liên quan đến bột ngọt vừa nhằm vào quần chúng rộng rãi: Bởi vì ước tính có đến 25% dân chúng mà cơ thể có phản ứng nguy hại đối với bột ngọt. Trong số nạn nhân, có nhiều người bị bệnh vì không biết rằng ăn đồ hộp có bột ngọt, dù ít đi nữa – món ăn bày bán tại các quầy hàng – là nguyên nhân của bệnh tật, thậm chí đe doạ tính mang của thực khách. Những nạn nhân này không biết rằng từ 20 năm nay các bác sĩ, nhà khoa học đã cho xuất bản các công trình nghiên cứu nghiêm túc về đề tài này rồi. Ngày nay, các bài báo vẫn tiếp tục xuất hiện trên những tạp chí khoa học có uy tín, có số phát hành cao đề cập chi tiết đến tính độc hại của bột ngọt. Tuy nhiên vẫn còn thiếu những thông tin cần thiết mang tính giáo dục để cho quần chúng rộng rãi tự mình nhận định về những tác động của bột ngọt.

Tôi (Tiến sĩ Arthur D.Colman) ngày càng quan tâm đến biết bao nhiêu thân chủ cùng đồng nghiệp của mình bị nhức đầu, có các triệu chứng đường ruột, trầm cảm, buồn bực và mặt bừng bừng. Vào năm 1978, bài viết chi tiết của tôi về hai ca bệnh: mỗi lần ăn uống thứ gì có bột ngọt là cả hai thân chủ của tôi có những triệu chứng trên cơ thể và cả tâm thần rất rõ - kể cả trầm cảm buồn bực đến ủ dột. Bài viết này được đăng trên tạp chí Y học vùng Tân Anh Cát Lợi (New England Jounal of Medicine, gọi tắt là TCYH)(*)

Các triệu chứng tâm thần đặc biệt khó lường bởi những dấu hiệu này chỉ lộ ra hai ngày (48 giờ) sau khi ăn uống thứ có chứa bột ngọt và có khi kéo dài suốt nhiều tuần lễ. Nhưng khi thức ăn của họ không có bột ngọt thì các triệu chứng đó không xuất hiện. Một thân chủ của tôi là một cậu bé gặp muôn ngàn khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày ở nhà cũng như ở trường: tình trạng u ám như vậy kéo dài suốt bao nhiêu năm do thức ăn em dùng có chứa bột ngọt. Sau khi loại bỏ hoàn toàn bột ngọt ra khỏi thức ăn của em này, thì tính khí của em trở nên ngoan cường đến cả cô giáo dạy em, lẫn bác sĩ tâm thần trị bệnh cho em đều ngẩn người ra vì kinh ngạc. Họ hỏi bố mẹ của em đã làm gì, thay đổi những gì! Mười năm sau, cậu bé ngày xưa bị xếp vào hạng “Ngổ ngáo và bướng bỉnh” thì ngày nay là sinh viên danh dự của khoa hoá Viện Đại học Califonia ở Berkeley.

Bài báo đăng trên TCYH tức khắc tạo ra tiếng vang trong quần chúng và được các phương tiện thông tin đại chúng - nhất là báo chí – quan tâm. Tôi đã đọc lại hàng trăm lá thư của bác sĩ, của các nhà chuyên môn gửi đến cho biết các kinh nghiệm lâm sàng của riêng họ cùng thư từ của các nạn nhân bột ngọt kể lể những nỗi khổ đâu mà họ phải chịu đựng.

Một tờ báo tiếng Nhật hàng đầu ở một thành phố lớn ở Miền Tây tuy đã dự kiến lên một chương trình phỏng vấn tôi, nhưng đã huỷ bỏ cuộc phỏng vấn vì bị đe doạ mất tiền quảng cáo từ các nhà sản xuất thực phẩm. TCYH này cũng nhận được một lá thư giọng đầy hằn học của Hiệp hội bột ngọt, một tổ chức quốc tế chi hầng triệu Mỹ kim tại hậu trường chính trị, còn nói rằng họ thất vọng và lo lắng khi tạp chí đã in bài của tôi, đề nghị rằng tạp chí này nên đưa ra một chính sách rõ ràng làm tiêu chuẩn cho việc xuất bản.

Chiến dịch chống lại bài viết dài vỏn vẹn có ba đoạn của tôi vẫn chưa ngừng tại đây. TCYH còn nhận được một lá thư từ một nhà nghiên cứu chất vấn về những phát hiện lâm sàng của tôi. Ban biên tập dành cho tôi điều kiện để phản bác ngay trên tạp chí. Đối với tôi, đây là một việc đơn giản: ngay trong lá thư của nhà nghiên cứu này có nhiều lời quảng cáo hơn là các nội dung khoa học.

Cuối cùng, những lá thư như vậy không còn được gởi đến toà soạn nữa. Điều đó không có nghĩa là tôi không gặp rắc rối: một đồng môn Harvard của tôi mà có hơn mười năm nay không gặp bỗng dưng xuất hiện ở San Franciosco. Chúng tôi gặp nhau cùng ăn sáng và câu chuyên hàn huyên nhanh chóng chuyển hướng về công trình của tôi nghiên cứu bột ngọt gây hội chứng tâm thần.

Thoạt tiên, anh bạn của tôi nói với vẻ xem thường các phát minh của tôi, rồi đề nghị tài trợ cho tôi nghiên cứu “các hiện tượng mẫn cảm” khác thay vì hội chứng tâm thần do bột ngọt. Tôi cảm thấy thất vọng, không phải vì bạn tôi xem thường công trình lâm sàng của mình mà vì động cơ thúc đẩy anh ta làm như vậy.

Sau khi bị tôi cật vấn về lòng tốt khác thường của anh, anh thú nhận là Tổ chức bột ngọt mướn anh làm tham vấn. Anh ta giận dữ thật sự khi tôi nói thẳng rằng anh là một “con rối”, từ đấy đến nay tôi không còn nghe tăm hơi gì của người bạn đồng môn Harvard của mình nữa!

Rõ ràng có một ngành công nghiệp cần bảo vệ tiếng tốt cho bột ngọt. Tuy nhiên dù đã tiêu hàng đống tiền cho quảng cáo và gaio tế nhân sự nhằm ca tụng bột ngọt là loại gia vị có tác dụng “tự nhiên”, nhưng nỗi hoang mang đối với bột ngọt ngày càng tăng.

Trong lúc khám bệnh, tôi vẫn đặt thành nếp: nghi ngờ có độc tính của bột ngọt mỗi khi có sự kết hợp giữa các triệu chứng đường ruột, thần kinh và trầm cảm. Đôi khi tôi giúp được cho bệnh nhân của mình khỏi phải chịu đau đớn và tốn kém. Tôi biết các bác sĩ nhi khoa hỏi bố mẹ của các cháu mắc bệnh (bệnh nhi) là thức ăn của các cháu có chứa bột ngọt không. Có bác sĩ còn dùng liều bột ngọt thử cho bệnhnhân để loại bỏ hoặc xác nhận nỗi nghi ngờ của mình. Những cố gắng như vậy dễ bị trắc trở vì mục tiêu quá rộng, đó là: “dị ứng thực phẩm” hơn là các độc tính đặc thù. Điều quan trọng là với liều đủ mạnh thì bột ngọt là chất độc với mọi người. Còn đối với những người không có khả năng biến dưỡng nó, bột ngọt trở thành thứ thuốc độc.

Tiếc thay trong hoàn cảnh hiện nay bỏ bột ngọt không dễ dàng gì. Ngay cả khi bố hay mẹ của người bệnh hay chính người tiêu thụ có học vị tiến sĩ dinh dưỡng đi chăng nữa cũng khó có khả năng loại bỏ hoàn toàn bột ngọt!

Chính vì vậy, cuốn sách này rất có giá trị. Nếu bạn, hay người bạn quen biết là nạn nhân của bột ngọt, thì cuốn sách này có thể thay đổi cuộc đời của mình: điều đó không hải là lời nói ngoa đâu.

2.Bột ngọt – mì chính – món gia vị hiện đại giết người dần dần.

Sau muối và tiêu, đây là thứ gia vị xếp hàng thứ ba và là thứ gia vị của thời đại chúng ta. Ở Mỹ nó được gọi là Monosodium glutamate, ở Nhật là Aji – no – moto, ở Việt Nam nó là bột ngọt, là mì chính, và còn mang nhiều tên gọi khác nhau ở quốc gia trên thế giới này.

Bột ngọt lần đầu tiên được triển khai tại phòng thí nghiệm của Kikunae Ikeda nguyên được phân lập từ rong biển để làm cho vị của món ăn thêm đậm đà. Tiến sĩ Ikeda nào có ngờ công trình của ông, nhằm nhận diện thứ hoạt chất trong rong biển mà các đầu bếp Nhật Bản đã sử dụng hàng ngàn năm nay, lại mở đường cho một ngành công nghiệp có khoản thu nhập lên hàng tỷ Mỹ kim trong thế kỷ XX này.

Không bao lâu sau khi phân lập được bột ngọt, Kikunae Ikeda trở thành người hùn vốn trong một cơ ngơi sau này biến thành công ty Aji – no – moto (có nghĩa: bản chất của vị). Sự thật là trên toàn thể các nước phương Đông, ai cũng biết là Aji–no -moto có nghĩa là bột ngọt, và trở thành tên gọi gần gũi dễ hiểu. Và để ghi công cho Tiến sĩ Ikeda, thứ bột nguyên gốc của ông phân lập hiện nay được đóng vào khuôn giữ tại một đài kỷ niệm tại Viện Đại học Đông Kinh.

Ngày nay bột ngọt được dùng trong các thực phẩm được chế biến, các thức ăn liền và các món ăn của người Hoa có các vị đặc biệt. Được tìm thấy trong hầu hết các loại súp, nước sốt và các protein thực vật thuỷ giải (*), bột ngọt trở nên là thứ nguyên liệu thô cho nền công nghiệp thực phẩm hiện đại.

Vậy sao chúng ta lại lo lắng về cái chất làm cho các thứ thực phẩm nhạt nhẽo thêm đậm đà, làm mất các mùi khó ưa của đồ hộp và kích thích các gai vị giác mệt mỏi của chúng ta? Tại sao lại có người muốn thách thức những đặc tính có vẻ lợi của bột ngọt?

Câu trả lời: bột ngọt đơn giản là mọt chất độc với nhiều người mẫn cảm đối với các tác dụng của nó.

Các phản ứng của cơ thể đối với bột ngọt là từ nhẹ đến rất nặng. Quả thật vậy, qua bài đầu tiên được đăng trên New England Journal of Medicine (Tạp chí Y học vùng Tân Anh Cát Lợi) vào năm 1968, Bác sĩ Ho Man Kwok tường trình các triệu chứng tương đối nhẹ như nhức đầu, da bừng bừng. Tuy nhiên, càng về sau này các công trình nghiên cứu tích luỹ nhiều tư liệu cho thấy bột ngọt gây ra những hậu quả tai hại hơn và kéo dài hơn như bệnh suyễn, nhức đầu như búa bổ và các tai biến về tim đe doạ tính mạng. Các loại triệu chứng khác thoạt nhìn có vẻ do tâm thần nhưng rà soát lại thì do dùng bột ngọt: tính khí thất thường một cách quá đáng, dễ nóng giận, trầm cảm, thậm chí cảm thấy mình bị thù ghét.

Nhiều ca bệnh trầm trọng vì bột ngọt đã được các bác sĩ đúc kết thành tài liệu và ngày càng có nhiều bài xuất hiện trong y văn mà các chuyên gia có thể dùng để nghiên cứu, tham khảo. Tuy nhiên đại đa số những người bị mẫn cảm đối với bột ngọt lại không biết rằng những khổ sở khó khăn trong đời của mình rất có thể là do bột ngọt gây ra: họ đi khám bác sĩ mà vẫn không thấy khỏi, bác sĩ không sao giải thích được những lời than vãn của thân chủ nổi giận dữ và buồn bực do bột ngọt gây ra, thậm chí dẫn tới nguy cơ tự vẫn nếu không tìm ra được nguyên nhân do đâu mà có những rối loạn tâm thần như vậy.

Một công trình nghiên cứu qua bản trả lời những câu hỏi đặt ra (được công bố vào tháng 4 năm 1977) cho thấy rất đông mẫu chọn do Tiến sĩ Liane Reif – Lenrer cho thấy có 30% người lớn và có từ 10 đến 20% trẻ em có phản ứng đối với thức ăn có chứa bột ngọt. Như vậy có nghĩa là hiện nay có hàng triệu sinh mạng đang bị đe doạ vì bột ngọt.

Bột ngọt được tìm thấy hầu hết trong các thức ăn liền trên quy mô cả nước. Những loại thức ăn liền này lại được trẻ em và thanh thiếu niên rất ưa chuộng, có thể trở thành “chất độc màu xanh” - một cụm từ mà các nhà nghiên cứu thuộc Viện Sức khoẻ Tâm thần Quốc gia dùng để giải thích cho nguyên nhân gia tăng hội chứng trầm cảm trong số trẻ em và lứa tuổi niên thiếu. Những triệu chứng về thể chất và phong thái của trẻ em – như những cơn động kinh và mất khả năng tự chủ được định bệnh và chữa khỏi khi chúng được xem như là phản ứng đối với bột ngọt.

Vào cuối thập niên 60, bột ngọt bị loại bỏ khỏi thức ăn cho trẻ con. TS Jean Mayer, một nhà khoa học thực phẩm hàng đầu thuộc Viện Đại học Harvard đã tuyên bố trong buổi họp phụ nữ tại Câu lạc bộ báo chí Quốc gia rằng: “Dù có cảm thấy hơi áy náy vì chưa có đủ bằng chứng nhưng tôi vẫn mong loại bỏ hẳn cái thứ trời đánh này (bột ngọt) ra khỏi thức ăn trẻ con”. Ngay tức khắc các nhà sản xuất thực phẩm Gerber Heinz và Beechnut tuyên bố không dùng bột ngọt trong việc chế biến thức ăn cho trẻ con nữa. Thế nhưng các cháu vẫn dùng bột ngọt qua các món ăn thường được gia đình nấu nướng.

Các sự kiện khoa học thu thập được từ các ca bệnh cần được quảng đại quần chúng quan tâm, chú y. Riêng ở Mỹ có ít ra là 20 triệu người và trên thế giới có ít ra là 100 triệu người có phản ứng đối với bột ngọt. Điều này có nghĩa rằng trong khi có người dùng bột ngọt mà không bị tác hại thì nhiều người lại bị thương tổn về mặt thể chất và tâm thần khi dùng bột ngọt làm gia vị mà không hề hay biết rằng đối với họ, bột ngọt có những tác động của một loại thuốc mạnh. Cuốn sách “Dở - hội chứng bột ngọt” là câu chuyện về những tác động tai hịa của bột ngọt đối với sức khoẻ và sự an lành của họ. Sách trình bày chi tiết những công trình của các nhà khoa học hiến trọn đời mình để khuyến cáo đừng dùng bột ngọt nữa. Cuốn sách còn đề cập đến một nền kinh tế liên hệ phụ thuộc vào việc sản xuất và tiêu thụ bột ngọt, và các nhà tâm lý học, các bác sĩ, các bệnh viện, trường học và luật sư liên hệ với nhau như thế nào trong vấn đề này do tác động sâu rộng của bột ngọt.

Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cũng như trên hiện trường đều cho thấy một hình ảnh bất biến: 30% dân số có những triệu chứng khó chịu khi dùng bột ngọt theo liều lượng như được dùng để nêm nếm thức ăn. Những dữ kiện lâm sàng cho thấy rằng đối với một số người những triệu chứng không thuộc loại nhẹ hay chóng qua mà thuộc loại nặng và nguy hiểm, và rất có thể - dù không phải khi nào cũng vậy - dẫn đến những chứng bệnh mãn tính hoặc gây thương tổn vĩnh viễn. Ngày cnàg có nhiều người bị nguy hại do việc sử dụng bột ngọt ngày càng tăng. Hiện tượng không chịu được bột ngọt không phải là phản ứng quá mẫn cảm – nhưng đúng là một tác động do thuốc. Một liều đủ cao có khả năng gây bệnh cho bất cứ ai, và có nhiều người hơn nữa đang tiến dần tới cái liều nguy hại đó – nghĩa là khi có đủ lượng thì triệu chứng bệnh lộ ra – do tiêu thụ bột ngọt. Hội chứng bột ngọt không còn là thứ phản ứng khó tiêu của cơ thể đối với các món ăn Tàu.

Những ai có phản ứng với bột ngọt, trước hết phải nhận ra cho rõ các phản ứng đó của mình, và rồi học cách ăn không có bột ngọt.

Những ai không chịu được bột ngọt mà có những phản ứng mạnh mẽ thường phải chịu khổ sở liên miên với các triệu chứng tâm lý và sinh lý. Biết né tránh không dùng bột ngọt có khả năng thay đổi cục diện rất tốt đẹp.
3.Hội chứng bột ngọt – dâu có phải chuyện đùa!

Thoạt tiên khi đọc bài của Bác sĩ Ho Man Kwok viết trên tạp chí Y học (TCYH) miền Tân Anh Cát Lợi (New England Journal of Medicine) vào năm 1968 tường thuật phản ứng cơ thể đối với bột ngọt, nhiều người tưởng lầm chuyện đùa mà thôi. Ông viết: “Hội chứng này thường bắt đầu sau khi dùng món ăn đầu tiên chừng 15 đến 20 phút, kéo dài 2 tiếng đồng hô và không để lại dư chứng gì. Những triệu chứng rõ nét nhất là cảm thấy tê tê sau gáy, và cảm giác đó lan dần xuống hai cánh tay rồi lan xuống lưng, mệt mỏi toàn thân và hồi hộp”. Qua thư bạn đọc gởi cho toà soạn, có độc giả yêu cầu: nếu là người thật việc thật thì Ho Man Kwok hãy ra mặt và thú nhận là ông đã đùa dai. Thế nhưng không những Bác sĩ Ho Man Kwok là con người bằng xương bằng thịt mà triệu chứng bệnh của ông cũng rất cụ thể và rõ ràng.

Vào năm 1969, Bác sĩ Herbert Schaumberg thuộc Đại học Y Albert Einstein bắt đầu một cuộc nghiên cứu khoa học tỉ mỉ về hậu quả của bột ngọt, và ông viết: “dù muốn làm bớt đi nỗi lo sợ khủng khiếp và ngăn chặn việc làm cho các chủ tiệm ăn của người Hoa khỏi bị sụp đổ, chúng tôi buộc phải trưng ra những điều cần thông bào về nguồn gốc của bệnh, tâm lý bệnh học và dược lý học lâm sàng về hội chứng do dùng món ăn của người Hoa (đúng là những món ăn nêm bột ngọt).

Và Bác sĩ Schaumberg cám ơn vô số nạn nhân đã gọi điện thoại cho ông vào những lúc khuya khoắt để tường thuật trường hợp lâm bệnh của mình.

Vào ngày mùng 1 tháng 8 năm 1969, Franz Ingel finger, Tổng biên tập của TCYH viết: “Dù được đặt tên gì cho hay nhất đi nữa thì phản ứng với bệnh nhân Kwok được miêu tả trong số báo ra ngày 16 tháng 5 của chúng tôi đã vén bức màn che khuất biết bao nạn nhân chịu khổ đau thầm lặng. Rõ ràng là rất nhiều người phải ngồi chịu đựng dằn vặt mà không dám hé môi, mỗi nạn nhân đều nghĩ chỉ có mình là bị đoạ đày chớ không bao giờ nghĩ rằng chính người bạn cùng mâm ra vẻ hồ hởi thưởng thức món súp yến sào cũng là người “đồng hội đồng thuyền” đang ngắc ngoải. Ngay cả vợ chống cũng muốn tránh cho nhau cái nghịch cảnh này”.

Thế nhưng thật là nực cười biết bao? Sau khi Bác sĩ Herberg Schaumberg và các cộng sự của ông điều tra kỹ hơn, họ đã nhận ra các triệu chứng do dùng bột ngọt như nóng bỏng, mặt nặng, đau ngực và nhức đầu. Họ khám phá ra rằng một chén súp (khoảng 20ml) cũng đủ làm cho những người nhạy cảm với bột ngọt có những triệu chứng bệnh đó rồi.

Khi 56 người bình thường có tuổi từ 21 đến 67 được thử nghiệm (30 đàn ông; 26 đàn bà), thì 55 người đều có triệu chứng của hội chứng bột ngọt xuất hiện ngoại trừ một người. Nhưng người này có triệu chứng khi có được tiêm bột ngọt vào tĩnh mạch.

Công trình nghiên cứu của Schaumberg phát hiện, một triệu chứng nặng là tức ngực lan khắp và có khi còn lan tới cánh tay hay cổ nữa. Cái cảm giác đáng ngại này đã khiến cho một người trong nhóm là một bác sĩ phải làm điện tâm đồ vì nghĩ rằng triệu chứng này là do cơn đau tim.

Qua bài viết đăng trong tạp chí Science (tạp chí khoa học) - tạp chí chính thức của Hàn lâm viện khoa học Hoa Kỳ - vào năm 1969, Bác sĩ Schaumberg trịnh trọng kết luận “bột ngọt gây ra các tác động bất lợi dù với lượng vẫn được nêm nếm các thức ăn thường dùng”.

Tám năm sau, Tiến sĩ Liane Reif-Lehrer, một nhà nghiên cứu thành danh trường Y thuộc Viện Đại học Harvard, thực hiện một cuộc thăm dò và nghiên cứu phản ứng đối với bột ngọt. Trong số 1529 người trả lời một loạt các câu hỏi thì 30% cho biết có những triệu chứng như chóng mặt, buồn nôn, đau bụng, mờ mắt, mệt mỏi, hụt hơi và sức yếu (Federtation Proceeding, tháng 4/1977).

Trong nghiên cứu của Tiến sĩ Reif-Lehrer thì triệu chứng phổ biến nhất là nhức đầu và có cảm giác mặt căng. Một số đáng kể còn có triệu chứng chóng mặt, tiêu chảy, buồn nôn và bụng đau thắt. Có 50 người có triệu chứng về mắt: từ cảm giác nóng ở mắt và mờ mắt tới thấy có ánh sáng và thấy nhiều màu sắc khác nhau. Nhiều người có những phản ứng tình cảm: từ ủ dột, mất ngủ đến “cảm giác” căng thẳng. Tiến sĩ Reif-Lehrer còn thăm dò cả lứa tuổi học trò: 317 học sinh từ lớp 2 đến lớp 6 thuộc các thành phố và thị trấn khác nhau. Sau khi ăn các thức ăn khác nhau, các cháu được yêu cầu miêu tả cảm giác của mình. 19% trẻ con có phản ứng bất lợi với bột ngọt, mà phổ biến nhất là đau bụng và buồn nôn. Trong khi hầu hết những người tham gia cho biết triệu chứng trên chỉ kéo dài trong 3-4 giờ thì 10% cho biết chúng kéo dài nhiều hơn.

Tiến sĩ Arthur Colman, một thầy thuốc về tâm thần đáng kính ở San Francisco, bắt đầu thu nhập dữ kiện sau khi phát hiện hai ca đầy kịch tính do phản ứng của người bệnh chống lại bột ngọt. Một trường hợp đặc thù là Noah, do bản thân người cha – cũng là một bác sĩ – tường thuật: “Noah lên 9. Khi chúng tôi nhận ra rằng mõi lần cháu ăn những loại thức ăn thuộc nhóm “ăn liền” thì cháu bị nhức đầu và đau bụng. Cháu gặp khó khăn trong việc nín đi tiểu, đi tiêu. Có khi cháu đi ra quần. Với cậu bé lên 9 mà còn đái ra quần thì còn thể thống gì nữa. Cháu còn có những hoạt động quá mức, thậm chí quá quắt trong phong cách cư xử mà không rõ nguyên nhân nào khiêu phát ra nữa”.

“Vị bác sĩ khoa nhi trị cho cháu cũng chịu thua. Thường Noah là cậu bé dễ thương, dịu dàng, thông minh và đầy thiện cảm. Nhưng những lúc thay đổi tính khí thì cháu dễ hờn giận, lầm bầm, la hét và không còn biết phải trái gì nữa. Nhà trường cũng thấy rõ những thay đổi của cháu và chúng tôi có trao đổi với thầy, cô giáo: họ đều bảo cháu là một học sinh thường thì rất là hoạt bát và thân thiện, nhưng có những lúc cháu thay đổi đến mức tưởng như cháu là con người khác hẳn. Chúng tôi vô cùng lúng túng. Chưng tiêu chảy và không nín đi tiêu được của cháu có tác động khủng khiếp lên nhân cách của cháu, bởi cháu không còn vui đùa cùng bạn bè đồng trang lứa nữa. Cháu bắt đầu được một bác sĩ tâm thần chạy chữa vì bác sĩ khoa nhi không sao tìm được nguyên nhân gây ra tính cách kỳ cục của cháu.

“Chúng tôi nhận ra rằng những triệu chứng của cháu trầm trọng thêm sau khi dùng món gà rán hiệu Kentucky, cuối cùng phát hiện ra rằng trong món gà rán hiệu này, bọt ngọt được nêm rất nhiều để làm gia vị theo lối “bí truyền”. Họ còn nêm vào bột pha với trứng để làm áo gà lúc rán. Suốt hai tuần lễ sau, chúng tôi giữ không cho cháu đụng vào bất cứ thức ăn nào có nêm bột ngọt. Những triệu chứng bệnh của cháu mất đi như có phép lạ và cháu kiểm soát được việc đi tiểu, đi tiêu rất đàng hoàng.

“Một hôm gia đình cháu đi nhà hàng dùng món ăn của người Hoa. Noah ăn một to Hoàng thánh, chỉ năm phút sau cháu bị nặng mặt và sau đó bị đau thắt bụng phải chạy vội vào nhà vệ sinh. Suốt tuần lễ sau đó tất cả các triệu chứng cũ trở lại hết. Chúng tôi có cảm nhận rằng nguyên nhân gây bệnh của cháu là bột ngọt cho nên chúng tôi rất thận trọng trong việc ăn uống của cháu.

“Chúng tôi không kể cho vị bác sĩ tâm thần về phát hiện của mình mà vẫn để cho cháu được điều trị tiếp. Lúc gặp chúng tôi vào dịp khám cho cháu vào tháng sau, vị bác sĩ ấy hỏi chúng tôi đã làm gì mà nay cháu Noah trở thành một con người khác hẳn. Bác sĩ đề nghị ngưng điều trị nếu tình trạng tiếp tục được cải thiện như vậy. Khi gặp các thầy cô giáo của cháu, các thầy cô cũng đều nhận thấy nay cháu có sự thay đổi nhân cách vừa thuần hậu vừa ổn định.

“Nay thì tánh khí của cháu tự nhiên hơn và không còn cảm thấy bị bức bách nữa. Không có lời nào tả nổi sự vui sướng của chúng tôi - kể từ ngày gia đình không cháu Noah đụng tới thức ăn có bột ngọt nữa”.

Giá mà các triệu chứng nhẹ hơn hoặc không có những tác dụng lâu dài hay nguy hiểm, ta có thể dễ dàng bỏ qua cho bột ngọt. Nhưng phản ứng của Noah đối với bột ngọt lại trầm trọng cho mạng sống của cháu - về mặt thể xác cũng như xã hội. Tuy nhiên, còn có những trường hợp nặng hơn vậy, làm cho nạn nhân của bột ngọt lâm vào cảnh thập tử nhất sinh.
4. Phản ứng của mì chính đối với cơ thể.

Vào những năm mở cửa, mì chính ồ ạt tràn vào nước ta. Thứ gia vị “quý như vàng” của thời bao cấp trở nên quá thông dụng đến thành lạm dung, đến mức mà quãng năm 1991 – 1992 nhiều phương tiện thông tin đại chúng phải lên tiếng uốn nắn khi nhiều bà mẹ bán thịt, bán trứng gà mua mì chính quấy bột cho con. Đài báo ngày ấy chỉ nói rằng: mì chính cũng giống đường hóa học, ăn chỉ ngọt miệng dù không bổ dưỡng nhưng dễ ăn, không độc hại! Không sao. Vậy nhiều năm nay chúng ta cứ “vô tư” dùng mì chính văng mạng, thành thói quen. Nồi canh rau, xoong thịt kho, đĩa xào, bát nước rau, thậm chí bát nước mắm chấm thường được nêm cỡ 1 thìa cà phê mì chính.

Mới đây một công trình khảo nghiệm khoa học của nhà nghiên cứu người Mỹ gốc Hàn Quốc Hwo Woong Zhong đăng trên tờ tạp chí Khoa học Mỹ số 7 – 1996 (Science No 7) với tên: “Hội chứng món ăn tài” (Chira Distres Symtoms) đã công bố những tác hại của việc dùng mì chính: Nếu dùng quá sẽ gây những tác hại cho các nơron thần kinh duy trì trí nhớ. Mặc dù muối Natri gốc Axít glutamic có tác dụng làm giảm lượng Amoniắc trong hệ tuần hoàn não nên phần nào có tác dụng làm giảm đau đầu (một thời có người đã chữa chứng đau đầu bằng... ăn nhiều mì chính). Nhưng sau đó, chính nó lại hạn chế khả năng trao đổi chất của các tế bào thần kinh, gây nên lão hoá. Đó chíh là nguyên nhân làm suy giảm trí nhớ.

Từ công trình nghiên cứu khoa học trên đây, ngày nay, tổ chức WHO (Tổ chức vì sức khoẻ của thế giới) và tổ chức Nông lương thế giới FAO đã khuyến nghị: Không nên dùng mì chính trong chế biến cho trẻ em dưới 6 tuổi. Cũng tác giả bài báo này đã thống kê và chỉ ra rằng: Châu Âu và các nước phát triển hầu như không ăn mì chính. Các nước sản xuất nhiều mì chính chỉ đem....xuất khẩu (Mỹ tiêu thụ nội địa 0,7%; Pháp 0,9%; Braxin 1%). Ngay nước Nhật, nước phát minh ra mì chính cũng chỉ làm ra để bán chứ tiêu thụ nội địa có 1,5% lượng mì chính làm ra. Một số trắc nghiệm của các nhà hoá thực phẩm Anh - Mỹ còn chỉ ra rằng: Ăn nhiều mì chính trong thức ăn một lần có thể gây triệu chứng buồn nôn, chóng mặt, ngứa dị ứng toàn thân hoặc từng phần; đặc biệt là phản ứng tăng nhanh nhịp tim... rất nguy hiểm cho người cao huyết áp.

Từ vài chục năm nay, mì chính, bột canh luôn là bạn đường thuỷ chung của các món ăn, nhà bếp Việt Nam. Bất kỳ món ăn nào của ta hiện nay cũng đều được nêm cỡ 1 thìa cà phê mì chính. Các món ăn hướng dẫn trên ti vi, trên báo, không món nào nêm dưới 2 thìa cà phê thứ muối a xít này. Ngay mì tôm, thứ đồ ăn rẻ tiền, dẫn dã cũng có tới 4 gr mì chính 1 gói. Chả thế mà hiện nay, hai nhà máy chuyên sản xuất mì chính ở Việt Trì và Vedan ở Đồng Nai và nhiều nhà máy bột canh ở Hà Nội, Sài Gòn cũng chưa cung cấp đủ nhu cầu nội địa. Hàng năm ta vẫn phải nhập mì chính từ Nhật, Đài Loan, Nam Triều Tiên, Braxin với rất nhiều tên thương phẩm như Ajinomoto, Aone...và cả mì chính Tàu nữa mới đủ cho nhu cầu thị trường. Thử làm một tính nhẩm nhỏ: trung bình một gia đinh 4 người 1 ngày dùng bình thường cỡ 7 thì cà phê cho các món ăn của 3 bữa, ước tính bình quân 4gr/thìa, tức là, bình thường 1 người dùng 7 gam: đã vượt quá giới hạn cho phép đến 15-20%. Nếu hiện tượng này không nhanh được uốn nắn liệu mai đây cái gì sẽ xảy ra?

Đặc biệt là các cửa hàng, nhà hàng lại càng lạm dụng mì chính để hấp dẫn khách, nhất là các cửa hàng phở, bún, miến... Ngày xưa để bán được phở, bún trong các nồi nước dùng phải có thật nhiều xương và tôm nõn ninh lấy vị ngọt. Ngày ấy phở, bún không mọc như nấm như ngày này. Ngày nay vô tình chúng ta đang tự đầu độc hoặc bị đầu độc bằng chất độc ngọt ngào: Mì chính.

Đã đến lúc các nhà khoa học, các phương tiện thông tin đại chúng cần vào cuộc tuyên truyền, uốn nắn một thói quen có hại của việc lạm dụng mì chính trong chế biến thực phẩm. Đừng để đến lúc các tác hại của hội chứng lạm dụng mì chính phát tác thì sẽ là quá muộn.
5.Phương cách loại bỏ mì chính.

Những năm qua chúng tôi đã đọc được lời cảnh báo về MGS (mì chính, hay bột ngọt): đầu tiên là từ các sách hướng dẫn phòng và trị bệnh bằng phương pháp thực dưỡng Ohsawa, mãi sau này là từ các sách báo như tạp chí “Thuốc và sức khoẻ”...Kể từ đó trong gia đình tôi “bỏ mì chính” một cách từ từ. Chúng tôi đã ăn chay trường tức là bỏ cá, thịt, trứng, rượu bia được hai năm rồi sau đó mới bỏ được mì chính, bỏ mì chính rất khó vì người thường không rõ tác hại ngay lập tức của nó. Bỏ nó khónhư bỏ thuốc lá, có lẽ còn khó hơn nữa vì người ta dễ cho rằng mì chính cũng là thức ăn chay. Trước đây có thời nó được quảng cáo dùng để trị bệnh “nhức đầu” và suy nhược thần kinhh và làm dễ nuốt cơm.

Kỳ thực ăn mì chính rất có hại cho cơ thể vì nó đánh lừa cảm giác. Khi cơ thể co s cảm giác chán ăn đó là do mỏi mệt hoặc đầy ứ chất độc cần được nghỉ ngơi bằng phép tiết thực hoặc thải bỏ chất độc ra ngoài thì người ta hay dùng lý trí và cảm tính lệch lạc để nhồi nhét những thức ăn đã được cho nhiều mì chính hơn để dễ nuốt!

Thực ra người ta cần có trực giác phát triển để cảm nhận chính xác về cơ thể, để ứng xử với “nó” cho phải. Nhưng phần đông dân chúng thay vì để cho cơ thể nghỉ ngơi một chút khi có cảm giác chán ăn (điều này giống như đènhiệu đỏ báo tạm dừng xe cộ) thì thay vào đó người ta chế ra đủ thứ món ăn ngon vật lạ, đặc sản....với cách nấu ăn cực kỳ phức tạp để đáp ứng một mục đích “dễ nuốt” mà bất cần xem cơ thể có thực sự cần những thức ăn đó hay không? Nếu người ta biết gốc của Đạo là Tự nhiên thì người ta dễ dàng nhận thức ngay được mì chính là một thứ hoá chất nhân tạo chế biến theo phương pháp hoá học phản tự nhiên hết sức.

Tôi có một anh bạn Việt kiều ở Mỹ về, da anh bóng lưỡng hông hào béo tốt khoẻ, được biết anh ăn chay rất kỹ, anh không dùng trứng và đặc biệt anh không dùng mì chính, anh nói anh chỉ cần ăn chút thức ăn có mì chính là cái cổ anh nó rát liền, anh có cơ thể mẫn cảm. Tôi hỏi anh bí quyết để có làn da đẹp – anh bảo do anh biết kỹ thuật thở và thiền định. Tôi chợt giật mình vì thấy cách đây 5, 7 năm về trước mỗi bát phở người ta có cho chút mì chính (do trước đây mì chính phân phối và đắt đỏ), nay người ta cho gấp 2-3 lần. Không biết có phải do quảng cáo về mì chính trên các phương tiện thông tin đại chúng mà ra hay không?

Một người bạn nhắc tôi: Cứ để ý cái thìa họ thường xuyên múc mì chính mà xem! Nếu là thìa nhôm - loại thìa xúc bột trẻ con – thì thấy ngay nó gỉ két lại. Sở dĩ có hiện tượng dó vì thực chất mì chính là một loại có gốc axít (MSG Mono Sudium Glutamate).

Mỗi lần tôi có việc phải đi ăn cơm khách hay nhà hàng, mặc dù họ nấu chay là trở về nhà tôi bị hỏng vị giác mất 2, 3 hôm. Sau đó vị giác tôi mới hồi lại, ăn những thức ăn mẹ tôi nấu mới thấy ngon. Tôi đã qua kinh nghiệm này hàng chục lần, đều cho một kết quả y như vậy. Có một người mà tôi biết có vị giác rất tinh nhạy – đó là bà Diệu Hạnh Ngô Thành Nhân ở 390 Điện Biên Phủ, quận Bình Thạnh TP.Hồ Chí Minh. Xem cách phán đoán về thức ăn của bà, tôi rất lấy làm khâm phục về trực giác và vị giác của bà.

Theo sự học hiểu của chúng tôi, một người gọi là khoẻ mạnh là người đạt được 7 tiêu chuẩn:
1.Không mệt mỏi.
2.Ngon ăn.
3.Ngủ ngon giấc.
4. Trí nhớ tốt.
5.Sắc mặt vui tươi.
6.Phán đoán và thực hành nhanh nhạy
7.Công bằng.

Trong đó “ngon ăn” là một trong những tín hiệu của cơ thể khoẻ mạnh. Theo Ohsawa, nếu gặp bất cứ món ăn thiên nhiên nào các bạn cũng ăn một cách nhác nhớm không ngon lành, thế là các bạn không ngon ăn; nếu các bạn gặp một miếng bánh mì khô hẩm hoặc một nắm cơm, các bạn cũng ăn một cách ngon lành, thế là các bạn ăn ngon, dạ dày các bạn được tốt. Ăn ngon miệng tức là có sức khoẻ.

Vậy nếu các bạn ngon ăn rồi thì các bạn còn dùng mì chính làm chi nữa? Có phải mì chính được cho vào thức ăn để làm cho các bạn ngon ăn và ăn được nhiều lên không? Nếu nhờ mì chính mà bạn mới thấy ngon ằn thì đúng là bạn không còn ngon ăn nữa rồi và do vậy bạn đâu còn khoẻ mạnh. Thực sự con người ta rất tham ăn và luẩn quẩn – Vì không ngon ăn (tức là cơ thể không còn khoẻ mạnh, đáng lẽ phải tiết thực để lấy lại trạng thái ngon ăn) nên sử dụng mì chính để tự mình lừa cảm giác của mình. Cứ đưa thức ăn vào làm cho cơ thể muốn nghỉ ngơi một chút cũng không được, và cứ thế...trong vòng lẩn quẩn. Không còn lúc nào biết ngon ăn thật và ngon ăn giả (do thức ăn có mì chính...), kéo theo không còn biết tình trạng cơ thể mình lúc nào khoẻ mạnh thật sự lúc nào mệt mỏi cần nghỉ ngơi... cho đến lúc bệnh lộ ra, viêm họng, ung thư; các loại bệnh nặng lộ ra...lúc đấy bạn cũng không biết nguyên nhân do đâu mà lại phải nhờ đến các loại bác sĩ, thầy thuốc...Con đường của chúng tôi là con đường tự mình làm thầy của mình, tự mình làm bác sĩ cho mình.

Để kiểm chứng về tác hại của bột ngọt (mì chính) tôi đã đọc tài liệu về tác hại của mì chính cho một người quen của tôi - một người rất hay dùng mì chính. Bạn đó nói: Đúng, đúng toi mắc một số bệnh đúng như báo nói. Không biết sau đó bà có chịu bỏ mì chính để đổi lấy một cơ thể lành mạnh hơn lên không?

Cách thức mà tôi bỏ thành công mì chính là: Bỏ từ từ, tìm chất ngọt từ thiên nhiên như cà rốt, củ đậu...nhất là từ tương cổ truyền và đặc biệt là Misô. Chúng tôi làm lấy gia vị: Muối đãi sạch, rang, giã nhỏ trộn với một chút đường hoa mai (đường vàng) cùng với cà rốt nhỏ sao khô, tán nhỏ trộn vào....thay bột canh trên thị trường (có trộn nhiều mì chính nội). Các bạn có thể sáng tạo những món bột canh thiên nhiên khác. Gần đay trên thị trường có bán một số bột canh thiên nhiên từ nấm hương...của Hồng Kông, Đài Loan...tuy nhiên chỉ nên dùng hạn chế, ở giai đoạn “chuyển tiếp” để sang giai đoạn không dùng bột ngọt trong bất cứ tình huống nào là tốt nhất.
6.Lời kêu gọi

Từ tháng 7 năm 1987 cuộc họp của 15 tổ chức thuộc 5 nước: Indonesia, Nhật, Nam Triều Tiên, Thái Lan, Mã Lai ở Bangkok đã quyết định hình thành “Tổ chứ hành động chống Bột ngọt” đưa ra tuyên bố Bangkok kêu gọi: “Cấm dùng bột ngọt trong thực phẩm cho trẻ em, thiếu niên và phụ nữ có thai”.

Hội nghị lần thứ 12, “Hội bảo vệ người tiêu dùng thế giới” họp ở Ma drit (Tây Ban Nha) với 13 nước thành viên cũng lập lại một lần nữa các đề nghị của tuyên bố Bangkok. Tổ chức hành động chống bột ngọt “No MSG please day” (MSG: Mono Sodium Glutamate) ra đời.

Tầm lan rộng bột ngọt nguy hại hơn thuốc lá và rượu! Vì rượu và thuốc lá chỉ có một số thanh niên và người lớn dùng có giới hạn; còn bột ngọt thì pha trộn trong thức ăn cho mọi lứa tuổi dùng thường xuyên hàng ngày, mà chính người dùng hoàn toàn không biết hậu quả về lâu về dài rất nguy hiểm.

Một điều khẳng định rằng: “Bột ngọt chỉ tạo ảo giác ngon miệng sự thực không phải là chất bổ dưỡng cần thiết, mà trái lại gây hậu quả thật là vô cúng”. Nhiều tài liệu các nước Đông Âu, Mỹ, Pháp, Nhật, Hồng Kông... đã yêu cầu không nên sử dụng bột ngọt trong thức ăn trẻ nhỏ và khuyên người lớn cần tránh!

Nhiều cán bộ, Tiến sĩ, Dược sĩ, Bác sĩ, các nhà chuyên môn giữ nhiều chức vụ then chốt trong ngành dinh dưỡng, Y khoa tại Việt nam đều nhất trí cao lên tiếng cảnh báo về tầm nguy hại sức khoẻ trầm trọng lâu dài trong việc ăn bột ngọt. Giáo sư Tiến sĩ Hà Huy Khôi (Viện trưởng Viện dinh dưỡng Việt nam- Bộ y tế), đồng chí Lê Văn Thiệu (Tổng thư ký Hội bảo vệ tiêu chuẩn và Người tiêu dùng Việt Nam), Tiến sĩ Dược khoa Phạm Văn Tất (Chuyên viên Viện vệ sinh Y tế công cộng), Dược sĩ Diệu Phương (Tổng Hội Y dược học – Hội dược học Việt Nam), Bác sĩ Nguyễn Lân Đính... và nhiều nhà nghiên cứu khác đã ra thông báo, đăng bài khắp các báo: Tạp chí Thuốc và Sức khoẻ (sô 8-9/92 và số 18/93), Thông báo của Viện dinh dưỡng Bộ Y tế, công văn số 266/VSTP (ngày 22/9/93), Nhật báo Sài Gòn Giải Phóng (1/1193), Báo Khoa học Phổ Thông (số 407, số 561)....

Do đó không nên chấp nhận việc sản xuất và nhập khẩu vào Việt Nam một lượng mì chính với những con số khủng khiếp như hiện nay.

Điều đớn đau nhất là một dân tộc vừa chập chững đứng lên sau nhiều năm chiến tranh liên miên, hiện nay bị đầu độc gây bệnh thấp khớp, đái đường, teo não, bại não, mất trí nhớ dần dần. Thần kinh là cơ quan trung ương của con người mà bị huỷ hoại thì cả thế hệ phải tự triệt tiêu nòi giống.
Sưu tầm.