Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2009

CÁC CÁCH SƠ CỨU Ở TRẺ EM

Hằng năm có hơn một triệu trẻ em phải nhập viện vì những tai nạn trong nhà. Trong khi rất ít cha mẹ có kiến thức về các biện pháp sơ cứu thông thường. Sau đây là những cách chữa cơ bản cho trẻ bị bỏng, nghẹn, bong gân, ngộ độc...
1. Bỏng

Rửa vết bỏng cho trẻ.

Làm mát chỗ bị bỏng bằng nước lạnh trong ít nhất 10 phút. Nó sẽ làm giảm sưng phồng. Cởi bỏ quần áo ra, nhưng nếu nó dính vào vết bỏng thì để nguyên.
Băng vết thương bằng loại nilon bọc thức ăn hoặc miếng vải sạch không nhiều sợi lông. Tuy nhiên, nếu vết bỏng nặng hoặc to hơn bàn tay thì phải đưa trẻ đến bệnh viện.
2. Chảy máu cam

Cho trẻ ngồi xuống và ngửa đầu lên để dòng máu không chảy ra khỏi mũi. Để chúng thở bằng miệng và bịt đầu mũi lại trong 10 phút. Nếu máu vẫn không ngừng chảy, ép mũi trở lại trong 2 lần nữa.
Khi máu ngừng chảy, lau sạch mũi. Bảo trẻ không nói chuyện, ho hay khụt khịt bởi nó có thể làm vỡ mạch máu đã lành trong mũi và lại gây chảy máu.
Đừng ngửa hẳn đầu trẻ ra sau bởi máu sẽ có thể chảy ngược vào cổ họng gây khó chịu. Nếu máu vẫn chảy trong hơn 30 phút, nên đưa trẻ đến bác sĩ.

3. Nghẹn, Dị vật đường thở: Không dùng tay móc nếu trẻ quá bé

Chữa nghẹn cho trẻ hơn 1 tuổi. Ảnh: Daily Mail.
Trẻ có thể ho sù sụ hoặc lặng câm bởi chúng không thể thở nổi. Nếu vật cản không thoát ra khi chúng ho, cần phải hành động ngay lập tức.
Xem xét có vật thể nào ở trong, nhưng chỉ lấy ra khi bạn biết chắc có thể chạm vào mà không đẩy chúng sâu vào họng.
Còn không, với trẻ hơn 12 tháng tuổi, đặt chúng nằm sấp trên đùi, đánh 5 cái vào giữa xương vai bằng lòng bàn tay.
Với em bé hơn, đặt bé nằm sấp trên cánh tay, đảm bảo đầu và cổ được đỡ chắc chắn, rồi mới đánh vào giữa vai bé.
Nếu vẫn không hiệu quả, thì lật ngửa bé lên, đặt đầu bé vào lòng bàn tay, hạ thấp người bé xuống. Dùng 2 ngón tay ấn mạnh vào xương ức. Cứ làm như thế sau 3 giây và nhìn vào mồm bé. Nếu bạn thấy cái gì đó thì nhặt ra, còn không thì tiếp tục ấn.
Với trẻ trên 1 tuổi, đứng sau chúng và đặt nắm tay của bạn ở giữa rốn và lồng ngực. Đặt bàn tay kia nắm lên và kéo mạnh ngược lên. Làm như thế 5 lần.
Nếu trẻ vẫn không hết ngạt, hãy gọi cấp cứu trong khi tiếp tục sơ cứu.

4. Bong gân

Bạn nghi ngờ trẻ bị bong gân. Trước tiên cho bé ngồi xuống. Bọc một ít đá trong khăn mặt và áp lên chỗ bị đau trong 10 phút để giảm sưng tím. Băng vết thương cẩn thận. Giữ chỗ đau ở trên cao để làm giảm dòng máu tới vết thương, đỡ sưng tấy.

5. Ngã

Nếu trẻ bị bất tỉnh, dù chỉ trong thời gian ngắn, hãy quấn chăn cho bé để giảm sốc, rồi gọi cấp cứu.
Đặt bé nằm ở tư thế hồi phục nếu vẫn còn thở và không có dấu hiệu gẫy xương hay chấn thương ở đầu cổ. Tìm kiếm các vết rạn nứt sọ, như hai con ngươi không đồng đều, máu chảy từ tai hoặc chảy nước từ mũi.
Kiểm tra chỗ chày xước hay chân tay có hình dáng bất thường. Nếu bạn nghi xương bị gãy thì hãy giữ nguyên cho đến khi xe cấp cứu đến. Quấn tạm khăn quanh chỗ đó.
Nếu trẻ tỉnh táo và không có dấu hiệu nghiêm trọng gì, dùng miếng vải thấm nước lạnh đắp lên chỗ va đập trong 10 phút để giảm sưng.
Theo dõi trẻ trong ít nhất 48 tiếng sau khi tai nạn, gọi bác sĩ nếu bạn phát hiện vấn đề gì khác thường như chóng mặt, hoa mắt, nói khó.

6. Điện giật

Bạn không được chạm vào trẻ nếu nó vẫn ở trong nguồn điện, nếu không bạn cũng bị giật.
Tắt nguồn điện ngay lập tức nếu có thể. Còn khi bạn vẫn phải tiếp xúc với trẻ để lấy nguồn điện ra, hãy đứng trên vật liệu cách điện khô, như quyển danh bạ điện thoại, dùng thứ gì đó bằng vật liệu cách điện, như cái chổi gỗ hoặc cuộn báo, và đẩy nguồn điện ra.
Hoặc nếu không, thòng dây thừng vào cánh tay hoặc cổ chân bé và kéo ra khỏi nguồn điện.
Kiểm tra hơi thở của bé. Nếu bé bất tỉnh nhưng vẫn thở, hãy đặt bé về tư thế hồi phục. Vết bỏng do điện giật có thể nhỏ nhưng gây nguy hiểm bên trong, hãy gọi cấp cứu.

7. Ngộ độc

Nếu bạn tin rằng trẻ đã hít hay nuốt phải chất độc như các chấy tẩy rửa, thuốc, hay các vật thể có hại, hãy gọi cấp cứu ngay lập tức và giữ trẻ im cho đến khi bác sĩ đến.
Nếu có thể, tìm hiểu chúng đã nuốt phải thứ gì và mang theo vỏ hộp đến bệnh viện. Đừng khiến chúng nôn ra bởi nó chỉ do gây tổn hại dạ dày và đường ống.
Nếu trẻ tự động nôn ra, hãy mang theo chỗ đó tới bệnh viện để phân tích.
Nếu trẻ nuốt phải thứ gì gây bỏng họng, hãy cho chúng nhấp ít nước hoặc sữa để làm mát bên trong.

8. Bất tỉnh

Nếu trẻ bất tỉnh, gọi cấp cứu ngay lập tức. Trong khi chờ, hãy làm theo các bước sau.
Nâng cằm bé lên bằng một tay trong khi dùng tay khi ấn trán bé xuống để ngửa đầu ra. Khi đường không khí được mở, hãy lắng nghe hơi thở.
Nếu không có dấu hiệu thở, hãy dùng biện pháp hô hấp nhân tạo. Ngửa đầu ra, nâng cằm lên và bịt mũi. Hít một hơi sâu, gắn mồm lên mồm trẻ và thổi hơi vào miệng trẻ trong 1 giây. Lặp lại không quá 5 lần, kiểm tra xem ngực trẻ có phồng lên. Nếu không, kiểm tra miệng xem có vật cản và đảm bảo đầu vẫn ngửa ra.
Đặt ngót tay lên xương ức của trẻ. Ấn mạnh và nhanh với tốc độ 100 lần/phút. Sau 30 cái, lại hà hơi thổi ngạt cho bé để đưa oxy vào phổi. Sau 2 lần hà hơi thổi ngạt, lại ấn ngực. Lặp lại chu kỳ cho đến khi hơi thở trở lại.

9. Tư thế hồi phục

Đây là tư thế dành cho trẻ bất tỉnh nhưng vẫn thở. Nó giúp chúng thở dễ dàng hơn và không bị nghẹn do nôn. (Nếu nghi ngờ có chấn thương đầu và cổ, thì không di chuyển).
Đặt trẻ nằm nghiêng một bên, co một đầu gối lên, hạ đầu bé xuống để bé không nuốt phải nước dãi chảy ra. Đỡ cổ bằng một cái gối.
Với trẻ sơ sinh, bế trong tay, đỡ đầu và hướng mặt xuống để tránh bị nghẹn.

10. Sốc mẫn cảm

Nó có thể là phản ứng của dị ứng nặng, thường do bị côn trùng đốt hoặc ăn phải lạc. Nó gây giảm huyết áp, đỏ ứng mặt và cơ thể, mặt mũi sưng phồng và khó thở.
Đầu tiên xác định liệu trẻ có phải bị một dị ứng biết trước và mang theo thuốc điều trị. Tiêm thuốc vào bắp đùi hoặc mông.
Sau đó gọi cấp cứu. Đặt trẻ nằm ở tư thế hồi phục, nếu trẻ không thể thở và không có thuốc, hãy gọi cấp cứu, trong khi thực hiện biện pháp hô hấp sơ cứu.
11. Chảy nhiều máu
Nếu trẻ bị vết cắt sâu khiến chảy nhiều máu, hãy rửa sạch, sau đó lau khô tay bạn và đeo găng.
Nâng cao vết thương để máu chảy về các cơ quan nội tạng, thay vì chảy đi mất. Kiểm tra xem có vật gì gắn vào vết thương. Nếu có thì cũng để nguyên bởi sẽ tháo ra sẽ chỉ làm tồi tệ thêm.
Thay vào đó, dùng vải buộc quanh vết thương, lót đệm sao cho miếng vải cao hơn vật thể để không ấn nó vào trong. Gọi cấp cứu ngay lập tức.
Nếu không có gì gắn ở vết thương, dùng miếng vải sạch ấn lên vết thương để kìm máu và quấn chặt xung quanh, tuy nhiên không quá chặt để máu vẫn chảy được đến ngón chân và tay. Tùy thuộc vào độ nghiêm trọng, hãy gọi cấp cứu.

12. Đuối nước: Nhanh chóng móc hết dị vật trong mũi, miệng nạn nhân

Trong trường hợp nạn nhân bị đuối nước vẫn còn tỉnh táo, người lớn chỉ cần đặt trẻ nằm ngửa, đầu hơi nghiêng một bên, sau đó kiểm tra và lấy hết dị vật trong miệng và đường thở của trẻ.
Nếu nạn nhân bất tỉnh, bạn cần phải làm sạch đường thở bằng cách móc dị vật trong miệng, mũi của nạn nhân để thông đường thở. Tiếp đó, bạn hà hơi thổi ngạt kết hợp ép tim ngoài lồng ngực (nếu nạn nhân có dấu hiệu ngừng tim) đến khi nào nạn nhân tự thở được.
Khi nạn nhân tỉnh lại, lưu ý nên để nạn nhân nằm nghiêng, đầu thấp và ủ ấm để đảm bảo thân nhiệt.
Cha mẹ tuyệt đối không nên để trẻ em một mình ở khu vực gần nước hoặc trong môi trường nước. Ở nông thôn nên che đậy giếng, chum, vại, bể nước, thùng nước. Nếu gần nhà có ao, hồ nước, hố nước (sau tôi vôi)... cần phải được rào chắn kỹ càng đề phòng trẻ sa xuống.

13. Bị vật sắc nhọn đâm: Không cố lấy khi đã cắm sâu vào thịt

Khi trẻ bị tai nạn do vật sắc nhọn đâm phải, cần phải rửa sạch vết thương bằng ôxy già hoặc nước sạch. Tuyệt đối bố mẹ không được cố lấy những dị vật đã cắm sâu vào vết thương mà nên sát khuẩn và băng cố định dị vật tại chỗ bằng khăn xô đủ chặt để cầm máu.
Nếu vết thương ở ngay mạch máu thì nên ấn vào đường đi của mạch máu ở phía trên vết thương, đồng thời băng ép đủ chặt để cầm máu. Sau đó phải đưa ngay trẻ đến cơ sở y tế gần nhất.
Các vật gây thương tích như dao, kéo, đinh… có dính bùn đất, phân hoặc gỉ có thể gây uốn ván và các nhiễm trùng nặng khác, nên đưa trẻ đến cơ sở y tế để tiêm phòng. Nhưng cách phòng tốt nhất là các bậc cha mẹ nên cất riêng đồ sắc nhọn, tránh lối ra vào và để xa tầm với của trẻ.

14. Động vật cắn: Rửa ngay vết thương bằng xà phòng

Bị động vật cắn, việc cần làm ngay là phải rửa sạch vết thương bằng nước sạch và xà phòng, sau đó phủ lên vết thương miếng vải sạch hoặc băng gạc.
Nếu trẻ bị chó, mèo cắn cần phải theo dõi con vật tối thiểu trong 10 ngày để phát hiện những biểu hiện bất thường như: sùi bọt mép, bị ốm sau khi cắn. Khi bị động vật nghi dại cắn, phải đưa ngay nạn nhân đến cơ sở y tế để tiêm phòng.

Sưu tầm

Bảo vệ và chăm sóc da em bé

Khi em bé vừa mới chào đời thì trên toàn bộ da bề mặt thân thể của em bé được bao bọc bởi một lớp chất gây. Lớp này có tác dụng bảo vệ da. Sau mỗi lần tắm chất gây sẽ mất dần đi và da em bé phải tiếp xúc trực tiếp với môi trường.

Da em bé có cấu trúc rất mong manh dễ bị tổn thương. Lớp da mỏng, chứa nhiều nước nhưng chất đàn hồi lại ít vì vậy tắm rửa phải nhẹ nhàng, không kỳ cọ, không chà mạnh.

Da các em bé bình thường: Hầu hết các em bé mới sinh bình thường ta có thể tắm bằng nước chanh hoà loãng. Khi em bé 3 tháng tuổi trở lên có thể tắm bằng các loại sữa tắm cho em bé.

Da các em bé bị khô: các em bé được sinh ra trong các gia đình có thành viên mắc các bệnh cơ địa như: viêm da cơ địa, viêm mũi dị ứng, hen phế quản thì hay được di truyền một làn da khô. Em bé sẽ hay bị ngứa và có thể viêm da sẽ xuất hiện trên nền da khô này. Da hai má đỏ ửng lên nhất là trời lạnh, rồi da trở nên sần sùi, sờ vào thô ráp và nổi lên các sẩn, các mụn nước. Đó là em bé bị mắc bệnh viêm da cơ địa. Đồng thời da đầu ngón tay, ngón chân hay bị xước mang rô. Da bàn tay, bàn chân cũng bị khô đồng thời với khô da ở mặt trước hai cẳng chân, mông, lưng, sờ vào thấy thô ráp chứ không mịn màng. Nếu da em bé khô và có viêm da thì ta có thể tắm bằng nước chanh hoà loãng hoặc bằng các sữa tắm cho da khô và da bị tổn thương như: cetaphil, physiogel, saforell... Khi trời lạnh quá không nhất thiết phải tắm hàng ngày. Càng tắm nhiều và tắm kỹ quá sẽ làm da càng khô. Sau khi tắm nếu vùng da nào khô quá thì có thể bôi các kem làm mềm da, ẩm da cho em bé. Nếu em bé dưới 1 tuổi bị khô da quá mức hoặc đã có biểu hiện viêm da thì nhất thiết không tự ý bôi một trong các chế phẩm có steroid như: flucinar, gentrisone, diprosone, fobancort... Nếu bôi không đúng chỉ định sẽ làm hại da và có thể gây teo da em bé. Tốt nhất bạn nên đưa em bé đi khám bác sĩ chuyên khoa Da liễu để được tư vấn và điều trị thích hợp nhất.

Vấn đề đóng bỉm cho em bé: bạn nên hạn chế đóng bỉm cho em bé. Khi đóng bỉm da vùng kẽ bẹn, kẽ mông sẽ bị bí, không thông thoáng cộng với nước tiểu ứ đọng lại sẽ làm tổn thương lớp biểu bì phía trên tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn, vi nấm xâm nhập vào trong da và gây bệnh. Khi thấy da em bé hơi bị mẩn đỏ bạn phải ngừng đóng bỉm và đi khám bác sĩ chuyên khoa Da liễu ngay vì nếu không con bạn sẽ bị mắc bệnh viêm da do tã lót hoặc viêm kẽ do nấm Candida... Nếu là bé gái khi bị viêm kẽ bẹn do nấm Candida thì để lâu hoặc điều trị không thích hợp sẽ bị viêm âm đạo do các bào tử nấm ăn lan vào. Đặc biệt những em bé được sinh ra ở những gia đình mắc các bệnh cơ địa như: viêm da cơ địa, viêm mũi dị ứng, hen phế quản thì da càng dễ bị tổn thương và dễ bị viêm do tã lót.

Để phòng bệnh cho trẻ trong những ngày giá rét, BS Nguyễn Văn Lộc, Phó giám đốc Viện Nhi TƯ khuyên: "Không chỉ giữ ấm cho trẻ, mà trong sinh hoạt, giờ giấc, ăn uống cũng phải rất chu đáo, không thể xuề xoà".

Giữ đủ ấm, đừng nóng quá

Để phòng bệnh hô hấp thời điểm này, quan trọng nhất là giữ đủ ấm cho trẻ, nhất là ấm hai bàn chân, ngực, cổ và đầu, tránh ra gió. Về đêm, khi nhiệt độ xuống thấp, việc ủ ấm cho trẻ là rất quan trọng. Rất nhiều bệnh nhi bị nhiễm lạnh dẫn tới viêm đường hô hấp trên do trẻ không đủ ấm khi ngủ (không mặc ấm hoặc ngủ say nên trẻ đạp bung chăn mà không biết). Do vậy, khi đi ngủ, cần mặc ấm cho trẻ. Nếu cần, có thể mặc thêm áo nhưng mặc ngược để giữ ấm phần ngực, cổ trong khi lưng vẫn được thoáng, không bị quá nóng dẫn đến rịn mồ hôi lưng.

Ngược lại, không ít bé ốm phải vào viện, một phần vì cha mẹ ủ bé quá kỹ. Khi đến khám, bác sĩ vén lưng áo cháu lên để nghe phổi thì thấy lưng, ngực dính dính mồ hôi. Khi mồ hôi ra nhiều mà không để ý lau khô, mồ hôi sẽ bị ngấm ngược lại cơ thể, khiến bé bị lạnh và có thể gây viêm phổi.

Vì thế, vấn đề cần quan tâm là các bà mẹ cần chú ý đến việc mặc quần áo của trẻ sao cho hợp lý. Nếu bé ở nhà, có thể để ý bé đủ ấm hay không bằng cách sờ vào hai tay cháu, nếu thấy ấm, không giá thì là bé đã mặc đủ đồ. Tuy nhiên cũng cần lưu ý, khi bé chơi đùa, vận đồng nhiều thì cần thường xuyên kiểm tra lưng, ngực bé, nếu thấy có dính mồ hôi phải dùng khăn mềm lau khô, bỏ bớt áo để thân nhiệt bé trở về bình thường, sau đó mới lại mặc áo.

Với những cháu nhỏ còn bú mẹ, khi bú rất hay rịn mồ hôi đầu, lưng cũng cần chú ý lau khô ngay. Sau khi bú xong, nghỉ ngơi, bé sẽ không còn bị ra mồ hôi nữa.

Còn khi đi đường, nhất là với những bé ở nhà chung cư, khi nào xuống đến tầng 1, chuẩn bị xe cộ sẵn sàng thì mới ủ thêm cho bé lớp áo dày, khăn đi đường. Vì nếu quá ấm ngay từ trong nhà, còn phải trải qua một thời gian đi cầu thang, lấy xe khiến bé rất nóng nực, rịn mồ hôi. Cũng cần chú ý thái độ của bé, thường nếu nóng quá, bé sẽ cố ưỡn lên khỏi tay người bế.

Chú ý mặc áo bên trong cho bé bằng chất cotton, thoáng, dễ thấm mồ hôi. Luôn giữ ấm cổ cho trẻ bằng một khăn xô. Nên mặc quần tất khi cho trẻ đi đường vì như thế sẽ hạn chế được tình trạng hở chân do quần bị kéo lên.

Ăn, uống đồ ấm và đủ chất

Việc này rất có ý nghĩa trong việc phòng bệnh một số bệnh về họng cho trẻ. Thời tiết mùa đông vốn hanh, khô, bạn có thể tạo môi trường khí ẩm bằng cách mở nắp ấm nước nóng trong phòng ngủ, không khí ẩm, ấm sẽ làm dịu khí quản, phế quản, giúp bé đỡ bị khô mũi, dễ thở hơn.

Nếu bé ăn bột quá chậm, bạn nên để bát bột trong một bát nước nóng để đảm bảo bột bé ăn luôn được ấm. Với những trẻ ăn sữa bằng cách bón cũng nên làm như vậy. Sữa, bột, nước ấm sẽ giúp bé dễ ăn hơn là những thìa bột, sữa lạnh ngắt.

Việc cho trẻ uống một đồ uống gì đó nóng ấm lúc đi ngủ cũng rất có tác dụng làm dịu họng, nhất là với những bé đang húng hắng tắc ho.

Nhớ cho trẻ ăn một chế độ ăn đa dạng, phong phú thực phẩm, rau quả, trái cây sẽ giúp cơ thể bé khoẻ mạnh, có sức đề kháng chống đỡ lại các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp hay gặp trong mùa đông.

Vệ sinh răng miệng, thân thể sạch sẽ

Trong những ngày đông này, đôi khi vì lạnh mà cha mẹ ít tắm cho con. Nếu vậy bé sẽ rất ngứa ngáy, khó chịu. Cách ngày, bạn hãy tắm cho bé một lần. Nhưng nhớ là tắm trong phòng kín gió. Nếu có điều kiện, hãy bật máy sưởi lên cho ấm phòng trước khi cho bé tắm. Hoặc mở vòi nước nóng để hơi nóng lan toả khắp phòng rồi hãy tắm cho bé.

Đặc biệt, mỗi ngày, bạn cần vệ sinh răng miệng cho trẻ sạch sẽ trước khi ăn, ngủ. Với những bé đã đánh được răng, bạn hãy pha nước ấm cho bé đánh. Nếu dùng nước lạnh trời này sẽ rất buốt. Còn với những trẻ nhỏ, sau ăn, bạn nhớ cho trẻ tráng miệng bằng vài thìa nước lọc ấm, nó rất có giá trị để làm trôi cặn sữa, bột, giúp miệng bé luôn sạch sẽ.

Mỗi sáng, cha mẹ có thể nhỏ một vài giọt muối sinh lý 0,9% vào họng bé. Nó có giá trị sát khuẩn nhẹ, giúp phòng bệnh viêm họng.

Chơi, ngủ trong phòng thoáng, tránh gió lùa

Những trẻ ở lứa tuổi đi mẫu giáo, đi học thường bị bệnh về đường hô hấp nhiều nhất, do các cháu thường xuyên phải thay đổi môi trường. Còn với lứa tuổi nhỏ hơn, do trời lạnh, được ở trong nhà nhiệt độ ổn định hơn nên cũng ít nguy cơ bị nhiễm bệnh.

Vì thế, khi đưa trẻ đi học, phải ủ ấm và nhớ luôn mang theo khẩu trang bảo vệ mũi, miệng khi đi đường.

Cho bé chơi, ngủ trong phòng thoáng nhưng không có gió lùa.

Đừng tự trị bệnh cho trẻ

Khi trẻ có dấu hiệu bệnh về đường hô hấp, cách tốt nhất là làm sạch, thông thoáng đường hô hấp bằng muối sinh lý. Sau đó, nếu tình trạng không đỡ nên đưa trẻ tới viện khám để xác định nguyên nhân. Với những trường hợp viêm mũi dị ứng thông thường, viêm tiểu phế quản ở trẻ sơ sinh… chỉ dùng nước muối sinh lý nhỏ để làm sạch đường hô hấp rất có tác dụng.

Đừng tự trị bệnh cho trẻ, kể cả chỉ dùng thuốc ho dạng siro. Đáng nói là nhiều bệnh nhi trước khi đến khám tại bệnh viện, gia đình đã tự cho uống nhiều loại thuốc kháng sinh không đúng cách hoặc để quá lâu nên dẫn đến bệnh nặng, điều trị khó khăn hơn và dễ xảy ra những biến chứng bất thường.

Ngoài ra, cần chú ý đảm bảo vệ sinh cho trẻ, thực hiện ăn chín uống sôi, vệ sinh tay sạch sẽ trước và sau ăn rất hữu ích phòng căn bệnh tiêu chảy mùa đông.

Để bé đạt chiều cao tối đa

Ba giai đoạn có tính chất quyết định về chiều cao là: trong bào thai, từ sơ sinh - 3 tuổi và giai đoạn dậy thì. Vì vậy, chế độ dinh dưỡng trong 3 giai đoạn này là đặc biệt quan trọng. BS Đào Thị Yến Thủy (ảnh), Trung tâm dinh dưỡng TP.HCM cho biết: - Giai đoạn trong bào thai, người mẹ cố gắng tăng 10 - 12 kg để bé sơ sinh đạt được chiều cao 50 cm lúc chào đời. Giai đoạn sơ sinh đến 3 tuổi, năm thứ nhất bé tăng 25 cm, hai năm kế tiếp mỗi năm tăng 10 cm. Trong giai đoạn tiền dậy thì và dậy thì (10 - 16 tuổi đối với nam và 12 - 18 tuổi đối với nữ) thì sẽ có 1 - 2 năm chiều cao tăng vọt từ 8 - 12 cm/năm nếu được chăm sóc dinh dưỡng tốt. Tuy nhiên, không thể dự đoán được chính xác đó là năm nào nên vẫn phải đảm bảo dinh dưỡng cho trẻ suốt trong giai đoạn này vì đây là cơ hội cuối cùng để tăng chiều cao. Sau dậy thì, cơ thể sẽ tăng cao rất chậm.

Có thể dự đoán chiều cao lúc trưởng thành của trẻ không, thưa BS?

- Chiều cao lúc trưởng thành của trẻ thường được các nhà chuyên môn dự đoán bằng hai công thức sau: Chiều cao lúc trưởng thành = chiều cao lúc 2 tuổi x 2 (ví dụ: lúc 24 tháng bé cao 85 cm, dự đoán bé sẽ cao 170 cm lúc trưởng thành nếu tiếp tục được nuôi dưỡng tốt). Chiều cao lúc trưởng thành = chiều cao lúc 10 tuổi: 80 x 100 (ví dụ: lúc 10 tuổi trẻ cao 140 cm thì khi trưởng thành sẽ đạt 175 cm).


Theo bà thì cần chú ý gì trong chế độ ăn để đạt chiều cao tối đa? "Để tăng trưởng chiều cao được liên tục, trẻ trước tiên phải được nhận đủ năng lượng cần thiết cho cơ thể mỗi ngày, ăn uống đủ lượng, đủ chất để không suy dinh dưỡng, còi cọc hay thiếu vi chất...".


- Để tăng trưởng chiều cao được liên tục, trẻ trước tiên phải được nhận đủ năng lượng cần thiết cho cơ thể mỗi ngày, ăn uống đủ lượng, đủ chất để không suy dinh dưỡng, còi cọc hay thiếu vi chất... Về khía cạnh dinh dưỡng, cần đặc biệt chú ý đến các chất dinh dưỡng đã được các nhà khoa học chứng minh là có liên quan đến sự tăng trưởng chiều cao như protein (đạm), vitamin A, vitamin D, lysin, canxi, sắt, kẽm, iốt... Ngủ đủ giấc, vận động thể dục thể thao thường xuyên trong ánh nắng mặt trời, phòng tránh bệnh tật... là những điều kiện để trẻ phát huy tối đa tiềm năng chiều cao mà di truyền cho phép.

Nhiều người cho rằng trẻ béo phì là do sữa. Vậy có nên ngừng cho trẻ béo phì uống sữa hay không?

- Thực chất sữa chỉ góp phần nhỏ trong vấn đề này. Trẻ béo phì thèm ăn tất cả và đa số trẻ dư năng lượng là từ cơm và chất béo từ dầu mỡ. Đối với trẻ dư cân ít, nên cho trẻ sử dụng các loại sữa tươi không đường. Đối với trẻ béo phì, nên chọn loại sữa tách béo (sữa gầy, sữa không béo, sữa tách bơ... dành cho trẻ trên 6 tuổi). Trẻ béo phì vẫn cần nhận đủ lượng canxi cần thiết cho việc tăng chiều cao của cơ thể.